Ngày mai các anh em lớp 10 sẽ thi học kì môn Sử nên tớ sẽ post topic này giúp anh em làm bài.
* - Họ Hồng Bàng
Việt Nam tổ chức thành xã hội từ khoảng
gần 3000 năm trước Công Nguyên (Thiên Chúa giáng sinh) và họ Hồng Bàng
làm vua 18 đời kéo dài 2621 năm (2879-258 trước công nguyên). Đây chỉ là
một truyền thuyết và chúng ta có thể tạm chấp nhận được, để giải thích
về nguồn gốc dân tộc khi mà chưa có một giải thích khoa học chính xác
hơn.
Việt Nam bấy giờ có tên là Văn Lang, kinh đô đặt ở Phong
Châu nay thuộc tỉnh Vĩnh Yên (Bắc Phần). Lãnh thổ gồm Bắc Việt và ba
tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh bây giờ. Ngoài triều đình có các hàng
quan lại, ở địa phương còn có quan võ gọi là Lạc tướng, quan văn là Lạc
hầu, đều có thái ấp riêng. Sinh hoạt về vật chất còn thô sơ, có những
tục vẽ mình, nhuộm răng, ăn trầu, theo chế độ Mẫu Hệ... tôn thờ các sức
mạnh thiên nhiên như Thần núi, Thần sông, Thần gió...
Đến đời
Hùng Vương thứ 18, Thục Phán ở phía Bắc Văn Lang sang đánh, Hùng Vương
thua nhảy xuống sông tự tử năm 258 trước công nguyên
* - An
Dương Vương- Triệu Đà
Thục Phán tự xưng làm vua năm 257 trước
Tây lịch hiệu là An Dương Vương, đóng đô ở Phong Khê (Phúc Yên) và cho
xây dựng thành Cổ Loa rất kiên cố. Lúc bấy giờ, bên Tàu Tần Thủy Hoàng
thống nhất thiên hạ, sai Đồ Thư mang quân sang đánh Âu Lạc. Nhưng sau 10
năm đánh nhau, Đồ Thư bị giết, quân Tần phải rút lui . Đây là lần đầu
tiên Âu Lạc chống lại quân xâm lược từ phương Bắc của Trung Hoa .
Ít
lâu sau, Triệu Đà từ quận Nam Hải (Quảng Đông bây giờ) sang đánh Âu
Lạc, An Dương Vương mắc mưu thua chạy, rồi tự tử. Từ đó Triệu Đà sát
nhập Âu Lạc vào quận Nam Hải và Quế Lâm (Quảng Tây) tạo thành nước Nam
Việt lên ngôi vua lấy hiệu là Triệu Vũ Vương đóng đô ở Phiên Ngung
(Quảng Đông)
* - Nhà Tiềng Hán Xâm Lăng Việt Nam
Bấy
giờ ở Trung Hoa là triều đại Tiềng Hán, năm 916 Triệu Vũ Vương giao
thiệp với nhà Hán. Sau Triệu Vũ Vương là các vua Văn vương, Minh vương
& Ai vương đều bất tài nhu nhược. Đời vua Ai Vương, nhà vua còn nhỏ,
Cù Thị là mẹ của Ai Vương vốn gốc người Hán, xúi giục Ai Vương đem đất
nước dâng nhà Hán. Tể tướng Lữ Gia can ngăn không được, phải bắt giết cả
hai mẹ con Cù Thị, rồi lập anh của Ai Vương lên làm vua lo chuẩn bị
chống lại nhà Hán. Sau đó nhà Hán sai tướng Lỗ Bác Đức sang đánh, Lữ Gia
yếu thế bị bắt giết, mở đầu cho một thời đại Bắc thuộc đen tối của dân
tộc.
II- THỜI ĐẠI BẮC THUỘC
* - Bắc Thuộc Lần Thứ Nhất
(111 trước công nguyên - 39 sau công nguyên)
Sau khi chiếm
Nam Việt, nhà Hán đặt nền đô hộ đầu tiên của phương Bắc lên nước ta .
Nam Việt bị đổi thành một bộ của Trung Hoa gọi là Giao Chỉ bộ chia ra
làm nhiều quận nhỏ, mỗi quận có quan lại người Tàu cai trị. Trong suốt
thời gian Bắc thuộc lần thứ nhất kéo dài 150 năm, kể từ năm 111 TCN cho
đến năm 39 SCN, dân tộc ta chịu trăm điều khổ sở vì các thái thú người
Tàu đại đa số tham lam, tàn ác, luôn luôn vơ vét của dân cho đầy túi
tham, ngoài phần đóng thuế cho triều đình Trung Hoa
* - Cuộc
Khởi Nghĩa Của Hai Bà Trưng
Năm 34 sau công nguyên, Tô Định
làm Thái thú quận Giao Chỉ là một người tham lam tàn bạo dân chúng vô
cùng oán hận. Tô Định giết Thi Sách là con Lạc Tướng Châu Diên (Vĩnh
Yên) khi Thi Sách mưu việc chống Tàu . Vợ Thi Sách là Trưng Trắc cùng
với em Trưng Nhị nổi lên đánh đuổi Tô Định báo thù cho chồng rửa hận cho
nước, Tô Định thua chạy về Tàu năm 40 SCN chấm dứt sự đô hộ của nhà Hán
đối với Nam Việt lần thứ nhất. Hai Bà lên ngôi vua đóng đô ở Mê Linh
(năm 40SCN) . Năm 41 danh tướng nhà Hán là Mã Viện mang quân sang đánh,
cầm cự cho đến năm 43 thì Hai Bà thất trận chạy đến sông Hát Giang rồi
trầm mình. Từ đó nước ta lệ thuộc Trung Hoa lần thứ hai .
* -
Bắc Thuộc Lần Thứ Hai
Sau khi thắng được Hai Bà Trưng, Mã
Viện cho tổ chức việc cai trị chặt chẽ hơn trước, các Lạc hầu Lạc tướng
bị tước hết quyền hành, nước ta coi như một phần đất của Trung Hoa . Các
Thái Thú thẳng tay đàn áp, thi hành chính sách đồng hóa dân ta: cách ăn
mặc, nhà ở, phong tục, học hành, lễ giáo ... đều bắt buộc phải theo
Tàu, về sau đổi tên nước ta lại là Giao Châu . Các quan Tàu đều tham
lam, tàn ác, dân ta vô cùng khổ sở phải lên rừng săn voi lấy ngà, xuống
biển mò ngọc trai dâng nạp cho quan Tàu . Trong suốt 501 năm (43-544)
trải qua các triều đại khác nhau của Trung Hoa dân ta phải luôn luôn
gánh chịu những áp bức của người Tàu đô hộ. Tuy nhiên trong khoảng thời
gian dài đăng đẳng đó, cũng có cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu năm 248, tuy
không thành công trong việc đánh đuổi người Tàu nhưng đã nói lên tinh
thần ái quốc của dân tộc, ảnh hưởng lớn lao đến các cuộc khởi nghĩa sau
này.
* - Cuộc Khởi Nghĩa Của Lý Bôn Chấm Dứt Bắc Thuộc Lần II -
Nhà Tiền Lý (544-602)
Trong thời Nam Bắc triều bên Tàu, đất
Giao Châu thuộc nhà Lương. Thứ Sử Tiêu Tư làm nhiều điều tàn ác, lòng
người oán giận đồng thời quân Lâm Ấp là nước ở cạnh Giao Châu thường
sang cướp phá luôn, dân chúng vô cùng khổ sở. Năm 541, Lý Bôn người
huyện Thái Bình (Sơn Tây) nổi lên đánh đuổi Tiêu Tư và dẹp tan quân Lâm
Ấp sang quấy nhiễu .
Thắng trận, năm 544 Lý Bôn tự xưng làm vua
hiệu Lý Nam Đế, đặt tên nước là Vạn Xuân, chấm dứt Bắc thuộc lần thứ
hai, đồng thời tạo được một thời gian độc lập lâu dài của dân tộc sau
gần 700 năm bị giặc Tàu đô hộ.
Năm 545 quân Tàu kéo sang đánh
nước ta, Lý Nam Đế già yếu trao quyền lại cho Triệu Quang Phục chống cự
với quân Tàu, cho đến năm 549 thì giặc Tàu thua chạy về nước, Lý Nam Đế
đã mất, Triệu Quang Phục lên ngôi xưng là Triệu Việt Vương.
Đến
năm 571 Lý Phật Tử là cháu Lý Nam Đế cướp ngôi Triệu Việt Vương, tự xưng
là Hậu Lý Nam Đế. Để rồi hơn 30 năm sau, năm 602, quân Tàu sang đánh Lý
Phật Tử đầu hàng. Một lần nữa nước ta lại bị lệ thuộc vào sự đô hộ khắc
nghiệt của nhà Tùy bên Tàu . Thời tự chủ kéo dài trong 58 năm đặt nền
móng cho tinh thần chống người Tàu từ phương Bắc của dân tộc ta về sau
này .
* - Bắc Thuộc Lần Thứ Ba(602 - 938)
Năm 602
nhà Tùy cai trị nước ta, nhưng đến năm 618 thì nhà Tùy bị nhà Đường
diệt, Giao Châu lại lệ thuộc vào nhà Đường và đổi tên thành An Nam Đô Hộ
Phủ. Chính sách cai trị của nhà Đường khắc nghiệt nhất so với các triều
đại khác của Trung Hoa, đã vậy quân Lâm Ấp & quân Nam Chiếu thường
sang cướp phá luôn, dân gian khổ sở trăm bề.
Mãi cho đến năm 722,
Mai Thúc Loan người tỉnh Hà Đông nổi lên chống với quân Đường, chiếm
giữ một phần đất ở Hoan Châu (Nghệ An). Nhưng sau đó Mai Thúc Loan yếu
thế thua chạy rồi bị bệnh mất.
Sau cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan,
nhà Đường lại càng siết chặt việc cai trị hơn trước nữa . Năm 791,
Phùng Hưng người tỉnh Sơn Tây đánh đuổi quân Đường về Tàu, lo việc cai
trị sửa sang lại nước được mấy tháng rồi mất. Con là Phùng An lên thay
nhưng thế lực đã suy yếu phải hàng nhà Đường khi xâm chiếm nước ta lần
nữa, dân ta lại lệ thuộc Trung Hoa .
* - Thời Kỳ Chuyển Tiếp
Độc Lập với Dương Diên Nghệ - Ngô Quyền ( 931-938 )
Nhà Nam
Hán đặt Lý Tiến làm Thứ sử Giao Châu từ năm 923 đến năm 931 thì Dương
Diên Nghệ nổi lên đánh đuổi quân Nam Hán, Lý Tiến thua chạy về Tàu.
Dương Diên Nghệ tự xưng làm Tiết Độ Sứ cai trị Giao Châu . Năm 937,
Dương Diên Nghệ bị nha tướng là Kiều Công Tiện giết để chiếm đoạt quyền
hành. Bấy giờ Ngô Quyền là rể Dương Diên Nghệ từ Thanh Hoá ra bắt Kiều
Công Tiện giết đi và phá tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938
khi quân Nam Hán âm mưu chiếm lại nước ta do sự cầu cứu của Kiều Công
Tiện - trước khi chết. Thắng trận Bạch Đằng Ngô Quyền chấm dứt hẳn thời
đại Bắc thuộc kéo dài 1050 năm, mở đường tự chủ cho dân tộc lâu dài từ
năm 938 trở về sau .
III- THỜI ĐẠI ĐỘC LẬP
* - Nhà Ngô
(938 - 965)
Sau khi phá quân Nam Hán, Ngô Quyền xưng vương
(939) đóng đô ở Cổ Loa huyện Đông Anh (Phúc Yên), sửa sang việc cai trị
mong xây dựng một nền tự chủ vững bền cho quốc gia dân tộc. Ngô Quyền
mất năm 944, dần dần về sau thế lực nhà Ngô ngày một suy yếu vì triều
đình không có được những bậc công thần gánh vác việc nước. Đến năm 965
đời vua Ngô Xương Xí, thì mỗi vùng một thổ hào tạo lấy cho mình một thế
lực riêng không tôn phục nhà Ngô nữa, rồi mang quân đánh lẫn nhau, gọi
là loạn Thập nhị sứ quân mà trong đó Ngô Xương Xí cũng là một sứ quân.
Năm 968 Đinh Bộ Lĩnh dẹp tan loạn sứ quân lập nên nhà Đinh.
* -
Nhà Đinh (968 - 980)
Đinh Bộ Lĩnh người động Hoa Lư tỉnh
Ninh Bình, lên ngôi năm 968 lấy hiệu là Đinh Tiên Hoàng, đặt tên nước
Đại Cồ Việt đóng đô ở Hoa Lư, đã có công chăm sóc, sửa sang lại đất nước
sau thời kỳ nội chiến tương tàn. Nhà Đinh cố lo tổ chức việc binh , có
được 10 đạo quân hùng mạnh so với thời bấy giờ. Về sau Đinh Tiên Hoàng
ham mê tửu sắc làm cho triều đình suy yếu đi, đến đời vua cuối cùng là
Đinh Tuệ mới sáu tuổi thì quân Tống sang đánh, Dương Thái Hậu cùng với
các tướng sĩ tôn Thập đạo tướng quân Lê Hoàng lên ngôi để đôn đốc quân
sĩ đánh giặc. Nhà Đinh mất ngôi năm 980 sau 12 năm trị vì.
* -
Nhà Tiền Lê (980 - 1009)
Lê Hoàng lên ngôi lấy hiệu là Đại
Hành Hoàng Đế, đánh tan quân Tống và chinh phạt Chiêm Thành khi Chiêm
Thành bắt sứ giả của ta . Vua Lê Đại Hành chăm lo việc cai trị, tổ chức
quân đội, mở mang nông nghiệp, đúc tiền, đào cảng, mở đường giao
thông...
Năm 1004 vua Lê Đại Hành mất, các vị vua về sau nhu
nhược ham mê tửu sắc, tàn ác, nhà Tiền Lê suy yếu đi và mất ngôi vào năm
1009 về tay nhà Lý.
* - Nhà Lý (1010 -1225)
Vua Lê
Ngọa Triều làm nhiều điều tàn ác lòng dân cũng như triều đình oán giận,
nên khi mất đi thì các quan tôn Lý Công Uẩn đang giữ chức Điện Tiền Chỉ
Huy Sứ lên ngôi .
Lý Công Uẩn lấy hiệu là Lý Thái Tổ, dời đô ra
thành Đại La tức Hà Nội bây giờ. Việc nội trị từ Lý Thái Tổ về sau vô
cùng hoàn bị, các phương tiện hành chánh, chính trị, kinh tế, quân sự,
tôn giáo ... được tổ chức chu đáo . Nhất là vào triều đại của vua Lý
Nhân Tôn (1072-1117) Khoa thi đầu tiên của nước ta được tổ chức, văn học
được chú trọng, quân sự cũng hùng mạnh, Lý Thường Kiệt, Tôn Đản mang
quân sang đánh Tống tận bên Tàu và phá tan giặc Tống sang báo thù (1075 -
1076), chinh phạt Chiêm Thành (1103) làm cho nhà Tống nể sợ, Chiêm
Thành phải triều cống.
Khi Tống sang đánh nước ta, để thúc lòng
quân sĩ chống giặc, Lý Thường Kiệt đã làm bài thơ nổi tiếng sau đây:
Về sau, vua Lý Huệ Tôn nhu nhược giao cả binh quyền cho
Trần Thủ Độ, nghe lời Trần Thủ Độ truyền ngôi cho Công Chúa Lý Chiêu
Hoàng mới 7 tuổi để đi tu . Trần Thủ Độ ép Lý Chiêu Hoàng lấy cháu mình
là Trần Cảnh rồi truyền ngôi cho chồng năm 1225, nhà Lý mất nghiệp kể từ
đó.
* - Nhà Trần (1225 -1400)
Trần Cảnh lên làm
vua lúc 8 tuổi, hiệu là Trần Thái Tôn, mọi việc trong nước đều do Trần
Thủ Độ quyết định. Trần Thủ Độ định lại việc việc cai trị, tổ chức một
triều đình có nếp, ấn định thuế má, mở mang nông nghiệp, việc binh bị
cũng được đặc biệt chú trọng để tránh hiểm họa phương Bắc. Văn học đã mở
mang rộng rãi, Nho học, Phật giáo, Lão giáo đều được triều đình chú
trọng. Nhiều nhà Nho, nhà văn nổi tiếng như Mạc Đĩnh Chi, Hàn Thuyên, Lê
Văn Hưu ... được nhắc nhở trong thời đại này .
Năm 1257, sau khi
vó ngựa đã dẫm nát Trung Hoa, biến Trung hoa thành nô lệ cho nhà Nguyên
và làm rung chuyển cả Âu Châu, quân Mông Cổ quay sang bắt đầu đánh nước
ta . Tuy nhiên, chỉ ít lâu sau đạo quân Mông Cổ bị đánh bại tan tành
không còn manh giáp phải chạy về Tàu, đánh dấu cho lần thất bại đầu tiên
của nhà Nguyên ở Việt Nam.
Năm 1284, để phục hận cho lần trước
bị đánh bại, quân Mông Cổ đem 50 vạn quân do Thoát Hoan, Toa Đô, cùng Ô
Mã Nhi tràn sang xâm chiếm nước ta . Trước thế giặc quá mạnh, vua Trần
Nhân Tôn hội họp các Vương Hầu ở Bình Than chia nhau ra chống giặc. Đồng
thời triệu tập các bô lão ở diện Diên Hồng để hỏi nên hòa hay nên chiến
- các bô lão đều đồng thanh xin đánh giặc cả.
Giai đoạn đầu thế
giặc mạnh như nước vỡ bờ, quân ta phải rút lui về giữ những nơi hiểm yếu
. Về sau với những danh tướng tài giỏi như Trần Hưng Đạo, Trần Nhật
Duật, Trần Quốc Toản, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão ... và tinh thần dốc
lòng đánh giặc của toàn dân, nên Toa Đô đã bỏ xác với vô số quân Mông
Cổ, còn Thoát Hoan và Ô Mã Nhi cùng tàn quân chạy trối chết về Tàu . 50
vạn quân Mông Cổ tan rã nhục nhã trong vòng không đầy một năm
(1284-1285). Lần thứ hai nhà Nguyên thảm hại chua cay trước dân tộc Việt
khi đã mở rộng đế quốc của họ ra đến tận Âu Châu .
Để phục thù,
nhà Nguyên đình lại việc đánh Nhật Bản, quay sang đánh nước ta . Thuyền
chiến, lương thực, khí giới, quân lính được chuẩn bị chu đáo, nhà Trần
biết được điều đó cũng lo phòng bị đối phó với giặc. Năm 1287 Thoát
Hoan, Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp dẫn 30 vạn quân cùng với 500 chiến thuyền ào
ạt tràn sang nước ta lần thứ ba .
Giai đoạn đầu, giặc quá mạnh,
vua tôi nhà Trần phải lánh vào Thanh Hóa để tránh mũi dùi của giặc và
kêu gọi khắp nơi cầm cự với quân Nguyên. Về sau quân ta bắt được thuyền
lương của giặc từ bên Tàu chuyển qua ở Vân Đồn làm cho quân Mông Cổ run
sợ - để rồi một lần nữa sóng nước Bạch Đằng đã nhận chìm vô số quân Mông
Cổ và Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp với 400 chiến thuyền bị quân ta bắt được.
Trên đường chạy trốn về nước, Thóat Hoan còn bị Phạm Ngũ Lão phục binh
đánh cho một trận tơi bời, chạy trối chết về Tàu .
Đạo quân Mông
Cổ mà vó ngựa đã từng dẫm nát lục địa Trung Hoa, xâm chiếm Nga-la-tư
rộng lớn, đánh tan các đội kî binh Âu Châu, làm run chuyển một phần lớn
vùng này, với ba lần thất bại, đã phải cúi đầu trước sức kháng cự của
dân tộc Việt mà từ bỏ mộng xâm lăng nước ta, cho đến khi nhà Nguyên bị
diệt bên Tàu .
Về cuối đời nhà Trần, các vua nhu nhược, triều
chính không người coi sóc, binh bị sao lãng để ba lần quân Chiêm Thành
đánh phá đến tận Thăng Long. Vào năm 1390, vua Chiêm là Chế Bồng Nga lại
kéo quân sang đánh, bị Trần Khắc Chân bắn chết từ đó giặc Chiêm mới
yên. Tuy nhiên nhà Trần đã suy sụp lắm rồi nên Lê Quý Ly lộng quyền âm
mưu diệt trừ các thế lực của nhà Trần dần dần, cho đến năm 1400 thì soán
đoạt ngôi của Thiếu Đế. Nhà Trần mất nghiệp sau 175 năm trị vì.
*
- Nhà Hồ (1400-1407)
Lên ngôi rồi, Lê Quý Ly đổi trở lại là
Hồ Quý Ly, đặt tên nước Đại Ngu, đóng đô ở Tây Đô (Thanh Hóa) Nhìn
chung, nhà Hồ tuy ở ngôi có 7 năm nhưng đã làm được rất nhiều như: giảm
thuế đinh, thuế điền, đặt ra thuế thuyền buôn, những quả phụ cô nhi và
những người không có ruộng đất được miễn thuế. Hồ Quý Ly còn có sáng
kiến in giấy bạc để thay cho tiền đồng, nhằm tiện việc buôn bán, làm
giàu cho ngân khố. Việc học hành thi cử cũng thay đổi rất nhiều: đặt ra
thêm môn thi toán pháp, dùng chữ Nôm để giảng dạy khắp trong nước và
soạn thảo công văn, sớ biểu . Phật Giáo cuối đời nhà Trần suy yếu đi
nhiều vì thiếu những bậc chân tu sâu sắc . Ngoài ra nhà Hồ lại đặt ty
y-tế để lo việc thuốc thang cho dân, đồng thời nhà Hồ cũng chú ý rất
nhiều đến việc tổ chức binh bị để tránh hiểm họa phương Bắc. Năm 1042
nhà Hồ mang quân đánh Chiêm Thành, di dân vào khai phá Quảng Nam và
Quảng Ngãi ngày nay, mở rộng bờ cõi về phương Nam.
Tuy nhiên, về
sau khi quân Minh sang đánh với chiêu bài khôi phục cho nhà Trần, nhiều
cựu thần còn tưởng nhớ tới thời vàng son của nhà Trần nên theo giặc rất
đông, đồng thời quan niệm về chiến thuật của nhà Hồ sai lầm nên năm
1407, Hồ Quý Ly và con cháu thua trận bị bắt giải về Tàu, giữa đường tự
tử chết, nhà Hồ mất nghiệp sau 7 năm.
* - Nhà Hậu Trần (1409 -
1413)
Quân Minh sau khi đánh bại Hồ Quý Ly, âm mưu chiếm
luôn nước ta . Trước dã tâm đó của quân Minh, con cháu của nhà Trần và
nhiều cựu thần, anh hùng hào kiệt không muốn làm nô lệ, bất hợp tác với
chúng. Do đó, quân Minh luôn luôn gặp sự chống đối của con cháu nhà Trần
được sự ủng hộ của toàn dân và nhiều người tài giỏi .
Năm 1407,
Trần Quỹ con thứ của vua Trần Nghệ Tôn xưng là Giản Định Đế chiêu mộ
quân chống giặc Minh. Đầu năm 1409 thì Giản Định Đế vào Thanh Hóa để phụ
với Trần Quý Khoách là cháu Trần Nghệ Tôn cùng lo việc khôi phục. Được
nhiều người tài giỏi giúp sức nhà Hậu Trần đánh nhau với quân Minh mãi
cho đến năm 1413 thì tan vỡ, từ đó nước ta mới lệ thuộc hẳn nhà Minh bên
Tàu.
* - Nước Ta Thuộc Nhà Minh (1414 - 1427)
Đến
năm 1414, nhà Minh chính thức cai trị nước ta, một chính sách rất chặt
chẽ và khắc nghiệt về mọi phương diện. Về hành chánh phân chia nước ta
ra làm nhiều cấp để cai trị, nhiều thứ thuế mới được đặt ra, bắt dân lên
rừng săn ngà voi, xuống biển mò ngọc trai nộp cho chúng. Đồng hóa dân
ta với Tàu bằng mọi cách, chỉ cho phép lưu hành Tứ Thư Ngũ Kinh của
Trung Hoa mà thôi, trong khi sách vở quý giá của ta từ đời Trần trở về
trước thì chúng tóm thâu cho hết về Tàu . Chúng bắt dân ta phải thờ cúng
Thần thánh của Trung hoa theo các phong tục Trung Hoa .
* -
10 Kháng Chiến Chống Quân Minh (1418 - 1427): Lê Lợi
Lê Lợi
là một phú nông ở làng Lam Sơn (Thanh Hóa), trước sự tàn ác dã man của
quân Minh, năm 1418 Lê Lợi được nhiều người tài giúp sức đã phất cờ khởi
nghĩa đánh đuổi giặc Minh.
Trong giai đoạn đầu Lê Lợi phải vất
vả rất nhiều, có lần phải xin tạm hòa với giặc, phải để cho gia đình bị
giặc bắt, cũng như để cho tùy tướng thân cận là Lê Lai liều mình cứu
khỏi vòng vây .
Về sau, nhờ Nguyễn Trãi bày mưu ta thắng giặc
nhiều trận, vây tướng Minh là Vương Thông ở Đông Đô (Hà Nội), chém Liễu
Thăng ở Chi Lăng khi Liễu Thăng mang quân giải cứu Vương Thông.
Cuối
cùng năm 1427, Vương Thông phải đầu hàng để kết thúc 10 năm gian khổ
giành độc lập của Lê Lợi cùng toàn dân.
* - Hậu Nhà Lê
(1428-1527)
Lê Lợi lên ngôi năm 1428 lấy niên hiệu là Lê Thái
Tổ, đặt tên nước là Đại Việt đóng đô ở Thăng Long. Chia đất nước ra làm
5 đạo, đặt quan cai trị. Tại triều có quan Tả Hửu tướng quốc đứng đầu
các quan, có Thượng Thư đứng đầu các bộ Lại, Lễ, Hộ, Binh, Hình, Công.
Nông nghiệp được khuyến khích, đắp đê để tránh lụt, mở thêm đồn điền,
khai khẩn đất hoang, qui định thuế má rõ ràng, và định lại phép cân đo .
Bộ Luật Hồng Đức ban bố vào triều vua Lê Thánh Tôn rất hoàn bị được xem
như khuôn mẫu cho các luật lệ về sau này . Văn học cũng được chú trọng
đặc biệt, Nho học cực thịnh. Triều đình đặt ra lệ xướng danh, khắc tên
vào bia đá và cho về vinh qui bái tổ những người thi đỗ tiến sĩ để
khuyến khích việc học. Rất nhiều văn tài đã xuất hiện cũng như những tác
phẩm văn chương giá trị được viết trong triều đại này . Tuy nhiên, Phật
giáo và Lão giáo lúc bấy giờ đang trên đà suy tàn, nhường bước cho Nho
giáo đang phát triển vượt bậc.
Việc binh bị cũng được chú ý rất
kỹ, các vua nhà hậu Lê nhiều lần mang quân sang chinh phạt Chiêm Thành.
Trong các năm 1446, 1470 quân ta chinh phạt Chiêm Thành đánh phá đến tận
kinh đô Chiêm là thành Đồ Bàn, bắt được vua Chiêm và Cung phi đem về
Thăng Long. Năm 1471 vua Lê Thánh Tôn chinh phạt Chiêm rồi cho quân ở
lại giữ, sau đó đưa quân vào khai khẩn mở đồn điền lập ra đất Quảng bây
giờ. Từ đó, Chiêm Thành bắt đầu suy vong mở đường tiến cho các Chúa
Nguyễn vào miền Nam sau này .
Ngoài ra, năm 1479 nhà Hậu Lê còn đánh
dẹp quân Ai-lao và quân Bồn Man là xứ nằm ở phía tây Nghệ An khi hai xứ
này liên kết nổi lên chống lại Đại Việt.
Tuy nhiên, bắt đầu từ
năm 1504 thì nhà Hậu Lê suy dần với Lê Uy Mục, Lê Tương Dực, Lê Chiêu
Tôn, Lê Cung Hoàng... đều là những vị vua bất tài, nhu nhược, xa xỉ, tàn
bạo ... Giặc giã nổi lên khắp nơi đánh phá, triều đình không dẹp được.
Triều chính suy yếu, các quân chia phe cánh đánh lẫn nhau cho đến năm
1527 thì bị Mạc Đặng Dung cướp ngôi, nhà Hậu Lê mất sau 100 năm trị vì.
*
- Nhà Mạc (1527-1592)
Mạc Đặng Dung cướp ngôi nhà Hậu Lê,
lên làm vua hiệu là Minh Đức, vẫn giữ nguyên nề nếp cũ của nhà Lê chứ
không sửa đổi gì cả. Tuy nhiên họ Mạc vẫn không thu phục được lòng dân
còn tưởng nhớ đến nhà Lê, nên rất nhiều người nổi lên chống phá.
Trong
đó có Nguyễn Kim là con Nguyễn Hoằng Dụ, một cựu thần nhà Lê năm 1532,
lập con vua Lê Chiêu Tôn lên làm vua tức Lê Trang Tôn rồi bắt đầu công
cuộc trùng hưng nhà Hậu Lê . Ngoài ra họ Mạc còn gánh chịu hiểm họa xâm
lăng của phương Bắc. Năm 1540 Mạc Đăng Dung phải đầu hàng, dâng đất cho
nhà Minh để được bãi binh & phong chức Đô Thống Sứ.
Sau cùng,
Trịnh Tùng giúp nhà Lê trùng hưng bắt giết được Mạc Mậu Hợp năm 1592,
nhà Mạc coi như mất ngôi. Con cháu chạy lên Cao bằng nương nhờ thế lực
nhà Minh một thời gian nữa rồi mất hẳn vào năm 1667.
* - Nhà
Lê Trung Hưng (1532-1778)
Có thể tính nhà Lê Trung Hưng bắt
đầu vào năm 1532, khi Lê Trang Tôn lên ngôi. Tuy nhiên bấy giờ nhà Lê đã
suy yếu lắm rồi, chỉ còn hư vị nhìn Trịnh Tùng xưng Chúa đất Bắc năm
1570, Nguyễn Hoàng làm Chúa miền Nam năm 1572 và nhà Mạc ở đất Cao Bằng
mang quân đánh lẫn nhau gần nửa thế kỉ để rồi mất hẳn nghiệp vào năm
1778 ở đời vua Lê Chiêu Thống, khi 20 vạn quân Thanh bị đánh tan do sự
cầu cứu của Lê Chiêu Thống.
IV - THỜI NAM BẮC PHÂN TRANH
(1572-1802)
* - Trịnh Nguyễn Phân Tranh
Ngay sau
khi Nguyễn Kim chết, con Nguyễn Kim là Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng còn
nhỏ, binh quyền về tay rể Nguyễn Kim là Trịnh Kiểm thì mầm móng chia rẻ
Trịnh-Nguyễn đã phát sinh. Về sau vì sợ Nguyễn Uông tranh quyền, Trịnh
Kiểm dùng mưu giết Nguyễn Uông đi, Nguyễn Hoàng lo sợ nói với chị là
Ngọc Bảo xin Trịnh Kiểm cho vào đất Thuận Hóa phía Nam năm 1558. Tuy
nhiên sau đó Nguyễn Hòang vẫn bị Trịnh Kiểm và Trịnh Hùng gọi ra Bắc để
kiềm chế lấy cớ là dẹp loạn, mãi cho đến năm 1572 Nguyễn Hoàng nhân một
chuyến đi dẹp loạn trốn được vào Nam, từ đó có cuộc phân tranh
Trịnh-Nguyễn chính thức.
Ở Bắc, các Chúa Trịnh kể từ Trịnh Tùng
lo sửa sang quan chế, giảm nhẹ hình phạt, cho khai mỏ, mở cảng Phố Hiến,
mở mang thương mại . Mở trường võ bị, đặt lệ thi võ, sai người viết sử
lại, khắc bảng gỗ in sách vở để không mua của Trung Hoa nữa, đánh dẹp
các cuộc nổi loạn... thực quyền nằm ở Phủ Chúa, các vua Lê nối tiếp nhau
chỉ có hư vị.
Ở Nam, các Chúa Nguyễn kể từ Nguyễn Hoàng tổ chức
việc hành chánh, đặt thuế xuất nhập cảng, mở cảng Hội An, đặt lệ thi để
chọn nhân tài, mở trường đúc súng đại bác, tập bắn... Nhưng công nghiệp
quan trọng nhất của các chúa Nguyễn là mở mang bờ cõi về phương Nam. Lúc
vào trấn Thuận Hoá, lãnh thổ nước ta chỉ có đến Bình Định ngày nay, sau
các Chúa Nguyễn lần lượt chiếm nốt đất của Chiêm Thành và thu nhận đất
Thủy Chân Lạp từ tay người Chân Lạp để lập ra miền Tây Nam phần ngày nay
.
Bắt đầu từ năm 1627, hai bên mang quân đánh lẫn nhau, chiến
trường thường là vùng Quảng Bình, kéo dài 45 năm với 7 trận đánh không
phân thắng bại cuối cùng năm 1672 mới giảng hòa chia đôi đất nước, lấy
sông Gianh làm ranh giới giữa đôi bên. Hòa bình kéo dài được 100 năm,
cho đến lúc anh em Tây Sơn dấy nghiệp ở đất Qui Nhơn thì chấm dứt.
Cũng
trong thời gian phân tranh này, người Âu Châu bắt đầu tiếp xúc với Việt
Nam ở cả đàng trong lẫn đàng ngoài trong việc buôn bán và truyền đạo
Thiên Chúa.
Cuối cùng hai bên suy yếu đi vì các Chúa chơi bời xa
xỉ không lo việc nước, triều thần lộng quyền, lòng dân không còn phục
nữa giặc cướp nổi lên đánh phá khắp nơi, để đến năm 1777 anh em Tây Sơn
dứt nghiệp Chúa ở miền Nam chỉ còn cháu Chúa Nguyễn là Nguyễn Ánh chạy
thoát và dứt Chúa Trịnh năm 1786 ở miền Bắc.
Đồng thời vua Lê
Chiêu Thống nhu nhược không tổ chức được triều chính khi anh em Tây Sơn
ra Bắc diệt họ Trịnh xong rồi rút quân về miền Nam. Năm 1788 Nguyễn Huệ
ra Bắc lần thứ hai, Lê Chiêu Thống chạy sang Tàu cầu cứu nhà Thanh, họ
Lê mất hẳn ngôi vào lúc đó.
Tuy nhiên, tình hình vẫn chưa ổn định
được, anh em Tây Sơn bất hòa đánh lẫn nhau, quân Thanh xâm lăng nước
ta, Nguyễn Phúc Ánh đánh phá miền Nam... mãi cho đến năm 1802 Gia Long
mới thống nhất được đất nước.
* - Nhà Tây Sơn (1778-1802)
Anh
em Tây Sơn : Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ người làng Tây Sơn tỉnh
Quy Nhơn, năm 1771 dựng cờ khởi nghĩa, quy tụ được rất nhiều người bất
mãn với chế độ nổi lên chống lại phía Nguyễn khi quyền thần Trương phúc
Loan làm nhiều điều tàn ác, tham lam dân chúng khổ sở.
Đầu tiên
anh em Tây Sơn dùng mưu lấy Quy Nhơn, rồi chẳng bao lâu đánh chiếm luôn
Phú Xuân (Huế) đuổi Chúa Nguyễn cùng cháu là Nguyễn phúc Ánh chạy vào
Gia Định. Nhưng sau đó họ Trịnh từ Bắc đánh vào, Chúa Nguyễn từ Nam đánh
ra, Tây Sơn ở giữa phải giả hàng Chúa Trịnh để quay vào đánh Chúa
Nguyễn. Từ đó Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ dùng mưu đánh lấy đất Gia Định, Chúa
Nguyễn bị bắt giết, cháu là Nguyễn phúc Ánh chạy thoát năm 1777, chấm
dứt nghiệp Chúa ở miền Nam.
Năm sau, năm 1778 Nguyễn Nhạc tự xưng
đế, đặt niên hiệu là Thái Đức, lấy thành Đồ Bàn làm kinh đô, phong tặng
cho Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ.
Nhân khi miền Bắc có loạn năm 1782,
vua Tây Sơn sai Nguyễn Huệ đánh chiếm đất Thuận Hóa, sau đó Nguyễn Huệ
ra Bắc truyền hịch phù Lê diệt Trịnh, bắt giết được Trịnh Khải năm 1786,
họ Trịnh mất hẳn từ đó.
Anh em Tây Sơn rút quân về Nam, Nguyễn
Huệ được vua Lê Hiển Tôn phong làm Nguyên Soái và gả con gái là Công
chúa Lê Ngọc Hân. Sau đó vua Lê Hiển Tôn mất, Lê Chiêu Thống kế vị bất
tài nhu nhược các tướng chuyên quyền, nên năm 1788 Nguyễn Huệ ra Bắc lần
thứ 2 bắt giết các tướng có ý phản, vua Lê Chiêu Thống chạy trốn tìm
người trung nghĩa lo khôi phục, nhưng thế lực đã suy tàn cơ nghiệp nhà
Hậu Lê từ năm này coi như chấm dứt. Về sau Lê Chiêu Thống cầu cứu nhà
Thanh nhưng cũng không thành công.
Cũng trong thời gian đó thì
anh em Tây Sơn bất hòa đánh lẫn nhau, nên năm 1788 Lê Chiêu Thống cầu
cứu nhà Thanh, Tôn Sĩ Nghị mang 20 vạn quân xâm chiếm Bắc Hà thì Nguyễn
Huệ ở Phú Xuân lên ngôi hoàng đế, niên hiệu là Quang Trung rồi đem quân
ra Bắc. Với những trận đánh ở Hà Hồi, Ngọc Hồi, Đống Đa .... Hứa Thế
Thành, Tôn Sĩ , Sầm Nghi Đống... bỏ xác tại trận và 20 vạn quân Thanh bị
đánh tan trong vòng 5 ngày . Tôn Sĩ Nghị chạy trốn về Tàu bỏ cả ấn tín
Lê Chiêu Thống vội vã chạy theo, sống lưu vong với đám tùy tùng rồi chết
ở bên đó.
Phá tan quân Thanh rồi, vua Quang Trung cải cách được
nhiều việc, chuẩn bị binh lính để đánh Trung hoa, nhưng chỉ được mấy năm
rồi mất sớm, truyền ngôi lại cho con là Quang Toản. Từ đó thế lực Tây
Sơn suy tàn, trong khi ở miền Nam , Nguyễn Phúc Ánh được nhiều ngươ ;øi
tài giỏi giúp sức mỗi ngày mỗi mạnh lên, để đến năm 1802 thì dứt nhà Tây
Sơn thống nhất đất nước sau gần 200 năm phân chia nội chiến
-NHÀ
NGUYỄN (1802-1945)
Lên ngôi năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh lấy
hiệu là Gia Long, đóng đô ở Huế, đặt tên nước Việt Nam, tổ chức triều
chính, mở trường học ở khắp nơi, tổ chức các khoa thi để chọn người làm
quan, Nho học được chú trọng. Nhà Nguyễn cũng chăm lo tổ chức quân đội,
đánh dẹp các cuộc nội loạn nhất là dưới thời Minh Mạng, Tự Đức. Về luật
pháp cũng được sửa đổi ít nhiều qua bộ luật Gia Long, triều đình còn
khuyến khích mở mang nông nghiệp, đào kinh dẫn nước vào ruộng và tiện
việc giao thông ở miềnTây Nam phần.
Nguyễn Trường Tộ là người
tinh thông Nho học và được du học ở các quốc gia Tây phương. Khi về nước
đã dâng lên vua Tự Đức những bản điều trần xin cải cách canh tân xứ sở.
Nhưng triều đình Huế bấy giờ chỉ là những nhà Nho thấm nhuần tư tưởng
Đông phương, bảo thủ, nghi ngờ không dám bỏ cũ theo mới . Nên trước kia
trong các năm 1821,1822,1835 nhiều phái đoàn Anh, Mỹ, Pháp đến xin thông
thương, buôn bán đều bị từ chối; cho nên những bản điều trần của Nguyễn
Trường Tộ cũng chịu chung số phận, các quan lại già nua tham quyền cố
vị lo sợ những người mới tranh hết quyền hành, đồng thời tình hình cũng
rối ren do đó dần dần những đề nghị của Nguyễn Trường Tộ bị bỏ dở không
thực hiện gì cả.
VI - CUỘC XÂM LĂNG CỦA NGƯỜI PHÁP VÀO VIỆT
NAM (1858-1884)
Cuối thế kỷ 18, người Pháp bắt đầu dòm
ngó đến Việt Nam trong việc mở rộng thuộc địa . Năm 1858 Pháp bắt đầu
xâm lăng Việt Nam, thì 4 năm sau, năm 1862 hòa ước Nhâm Tuất ký giữa
triều đình Huế (do Phan Thanh Giản đại diện) và Pháp nhường dứt cho Pháp
ba tỉnh miền Đông Nam phần Gia-định, Định-tường, Biên-hòa mở đầu cho
những hòa ước sau này dẫn đến việc Việt Nam rơi vào tay Pháp.
Năm
1863, Phan Thanh Giản cầm đầu phái bộ sang Pháp điều đình chuộc đất,
nhưng bất thành. Sau khi về nước, Phan Thanh Giản được cử làm
Kinh-lược-sứ ba tỉnh miền Tây Nam phần Vĩnh long, An giang, và Hà tiên
để lo chống việc Pháp.
Pháp đem quân đánh, Phan Thanh Giản uống
thuốc độc chết, ba tỉnh thất thủ, sáu tỉnh Nam phần rơi vào tay Pháp.
Chiếm xong sáu tỉnh miền Nam Pháp lăm le đất Bắc, Nguyễn Tri Phương được
cử giữ thành Hà Nội, Pháp đem quân đánh Hà nội lần thứ nhất, Nguyễn Tri
Phương cùng con là phò mã Nguyễn Lâm chết theo thành khi thành mất.
Trước
thất bại này, triều đình phải ký với Pháp hòa ước năm Giáp Tuất (1874),
nhường cho Pháp sáu tỉnh Nam Phần, đổi lại Pháp trả Hà Nội cho Việt
Nam.
Tuy nhiên Pháp vẫn dòm ngó đất Bắc, Hoàng Diệu được cử là
Tổng Đốc Hà nội để lo đối phó với giặc Pháp. Năm 1882 Pháp mang quân
đánh Hà-nội lần thứ hai, vì có người phản bội đốt kho thuốc súng nên
thành Hà-nội thất thủ, Hoàng Diệu thắt cổ chết, đất Bắc lọt vào tay Pháp
lần nữa .
Giữa lúc tình thế rối ren, năm 1883 vua Tự Đức băng
hà, triều đình Huế bị xáo trộn vì Nguyễn văn Tường và Tôn Thất Thuyết
trong vòng mấy tháng phế lập liên tiếp các vua Hiệp Hòa, Kiến Phúc, Hàm
Nghi
Sau khi lên ngôi, vua Hàm Nghi cùng với Tôn Thất Thuyết và các
văn thân tổ chức đánh úp Pháp ở đồn Mang Cá - gần kinh thành, nhưng
không thắng được. Kinh đô Huế thất thủ, Nguyễn văn Tường và Tôn Thất
Thuyết đưa vua Hàm Nghi chạy ra Quảng Bình truyền hịch Cần Vương kêu gọi
các sĩ phu cùng tòan dân đứng ra cứu nước.
Triều đình Huế còn
lại phải ký với chính phủ Pháp hoà ước Patenotre (1884) chấp nhập sự đô
hộ của Pháp ở Bắc Kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ là đất thuộc địa. Nhà Nguyễn
mất thực quyền bắt đầu vào năm này và Việt Nam rơi vào vòng đô hộ của
thực dân Pháp kể từ đó.
Nguồn: chuyen-qb.com
* - Họ Hồng Bàng
Việt Nam tổ chức thành xã hội từ khoảng
gần 3000 năm trước Công Nguyên (Thiên Chúa giáng sinh) và họ Hồng Bàng
làm vua 18 đời kéo dài 2621 năm (2879-258 trước công nguyên). Đây chỉ là
một truyền thuyết và chúng ta có thể tạm chấp nhận được, để giải thích
về nguồn gốc dân tộc khi mà chưa có một giải thích khoa học chính xác
hơn.
Việt Nam bấy giờ có tên là Văn Lang, kinh đô đặt ở Phong
Châu nay thuộc tỉnh Vĩnh Yên (Bắc Phần). Lãnh thổ gồm Bắc Việt và ba
tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh bây giờ. Ngoài triều đình có các hàng
quan lại, ở địa phương còn có quan võ gọi là Lạc tướng, quan văn là Lạc
hầu, đều có thái ấp riêng. Sinh hoạt về vật chất còn thô sơ, có những
tục vẽ mình, nhuộm răng, ăn trầu, theo chế độ Mẫu Hệ... tôn thờ các sức
mạnh thiên nhiên như Thần núi, Thần sông, Thần gió...
Đến đời
Hùng Vương thứ 18, Thục Phán ở phía Bắc Văn Lang sang đánh, Hùng Vương
thua nhảy xuống sông tự tử năm 258 trước công nguyên
* - An
Dương Vương- Triệu Đà
Thục Phán tự xưng làm vua năm 257 trước
Tây lịch hiệu là An Dương Vương, đóng đô ở Phong Khê (Phúc Yên) và cho
xây dựng thành Cổ Loa rất kiên cố. Lúc bấy giờ, bên Tàu Tần Thủy Hoàng
thống nhất thiên hạ, sai Đồ Thư mang quân sang đánh Âu Lạc. Nhưng sau 10
năm đánh nhau, Đồ Thư bị giết, quân Tần phải rút lui . Đây là lần đầu
tiên Âu Lạc chống lại quân xâm lược từ phương Bắc của Trung Hoa .
Ít
lâu sau, Triệu Đà từ quận Nam Hải (Quảng Đông bây giờ) sang đánh Âu
Lạc, An Dương Vương mắc mưu thua chạy, rồi tự tử. Từ đó Triệu Đà sát
nhập Âu Lạc vào quận Nam Hải và Quế Lâm (Quảng Tây) tạo thành nước Nam
Việt lên ngôi vua lấy hiệu là Triệu Vũ Vương đóng đô ở Phiên Ngung
(Quảng Đông)
* - Nhà Tiềng Hán Xâm Lăng Việt Nam
Bấy
giờ ở Trung Hoa là triều đại Tiềng Hán, năm 916 Triệu Vũ Vương giao
thiệp với nhà Hán. Sau Triệu Vũ Vương là các vua Văn vương, Minh vương
& Ai vương đều bất tài nhu nhược. Đời vua Ai Vương, nhà vua còn nhỏ,
Cù Thị là mẹ của Ai Vương vốn gốc người Hán, xúi giục Ai Vương đem đất
nước dâng nhà Hán. Tể tướng Lữ Gia can ngăn không được, phải bắt giết cả
hai mẹ con Cù Thị, rồi lập anh của Ai Vương lên làm vua lo chuẩn bị
chống lại nhà Hán. Sau đó nhà Hán sai tướng Lỗ Bác Đức sang đánh, Lữ Gia
yếu thế bị bắt giết, mở đầu cho một thời đại Bắc thuộc đen tối của dân
tộc.
II- THỜI ĐẠI BẮC THUỘC
* - Bắc Thuộc Lần Thứ Nhất
(111 trước công nguyên - 39 sau công nguyên)
Sau khi chiếm
Nam Việt, nhà Hán đặt nền đô hộ đầu tiên của phương Bắc lên nước ta .
Nam Việt bị đổi thành một bộ của Trung Hoa gọi là Giao Chỉ bộ chia ra
làm nhiều quận nhỏ, mỗi quận có quan lại người Tàu cai trị. Trong suốt
thời gian Bắc thuộc lần thứ nhất kéo dài 150 năm, kể từ năm 111 TCN cho
đến năm 39 SCN, dân tộc ta chịu trăm điều khổ sở vì các thái thú người
Tàu đại đa số tham lam, tàn ác, luôn luôn vơ vét của dân cho đầy túi
tham, ngoài phần đóng thuế cho triều đình Trung Hoa
* - Cuộc
Khởi Nghĩa Của Hai Bà Trưng
Năm 34 sau công nguyên, Tô Định
làm Thái thú quận Giao Chỉ là một người tham lam tàn bạo dân chúng vô
cùng oán hận. Tô Định giết Thi Sách là con Lạc Tướng Châu Diên (Vĩnh
Yên) khi Thi Sách mưu việc chống Tàu . Vợ Thi Sách là Trưng Trắc cùng
với em Trưng Nhị nổi lên đánh đuổi Tô Định báo thù cho chồng rửa hận cho
nước, Tô Định thua chạy về Tàu năm 40 SCN chấm dứt sự đô hộ của nhà Hán
đối với Nam Việt lần thứ nhất. Hai Bà lên ngôi vua đóng đô ở Mê Linh
(năm 40SCN) . Năm 41 danh tướng nhà Hán là Mã Viện mang quân sang đánh,
cầm cự cho đến năm 43 thì Hai Bà thất trận chạy đến sông Hát Giang rồi
trầm mình. Từ đó nước ta lệ thuộc Trung Hoa lần thứ hai .
* -
Bắc Thuộc Lần Thứ Hai
Sau khi thắng được Hai Bà Trưng, Mã
Viện cho tổ chức việc cai trị chặt chẽ hơn trước, các Lạc hầu Lạc tướng
bị tước hết quyền hành, nước ta coi như một phần đất của Trung Hoa . Các
Thái Thú thẳng tay đàn áp, thi hành chính sách đồng hóa dân ta: cách ăn
mặc, nhà ở, phong tục, học hành, lễ giáo ... đều bắt buộc phải theo
Tàu, về sau đổi tên nước ta lại là Giao Châu . Các quan Tàu đều tham
lam, tàn ác, dân ta vô cùng khổ sở phải lên rừng săn voi lấy ngà, xuống
biển mò ngọc trai dâng nạp cho quan Tàu . Trong suốt 501 năm (43-544)
trải qua các triều đại khác nhau của Trung Hoa dân ta phải luôn luôn
gánh chịu những áp bức của người Tàu đô hộ. Tuy nhiên trong khoảng thời
gian dài đăng đẳng đó, cũng có cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu năm 248, tuy
không thành công trong việc đánh đuổi người Tàu nhưng đã nói lên tinh
thần ái quốc của dân tộc, ảnh hưởng lớn lao đến các cuộc khởi nghĩa sau
này.
* - Cuộc Khởi Nghĩa Của Lý Bôn Chấm Dứt Bắc Thuộc Lần II -
Nhà Tiền Lý (544-602)
Trong thời Nam Bắc triều bên Tàu, đất
Giao Châu thuộc nhà Lương. Thứ Sử Tiêu Tư làm nhiều điều tàn ác, lòng
người oán giận đồng thời quân Lâm Ấp là nước ở cạnh Giao Châu thường
sang cướp phá luôn, dân chúng vô cùng khổ sở. Năm 541, Lý Bôn người
huyện Thái Bình (Sơn Tây) nổi lên đánh đuổi Tiêu Tư và dẹp tan quân Lâm
Ấp sang quấy nhiễu .
Thắng trận, năm 544 Lý Bôn tự xưng làm vua
hiệu Lý Nam Đế, đặt tên nước là Vạn Xuân, chấm dứt Bắc thuộc lần thứ
hai, đồng thời tạo được một thời gian độc lập lâu dài của dân tộc sau
gần 700 năm bị giặc Tàu đô hộ.
Năm 545 quân Tàu kéo sang đánh
nước ta, Lý Nam Đế già yếu trao quyền lại cho Triệu Quang Phục chống cự
với quân Tàu, cho đến năm 549 thì giặc Tàu thua chạy về nước, Lý Nam Đế
đã mất, Triệu Quang Phục lên ngôi xưng là Triệu Việt Vương.
Đến
năm 571 Lý Phật Tử là cháu Lý Nam Đế cướp ngôi Triệu Việt Vương, tự xưng
là Hậu Lý Nam Đế. Để rồi hơn 30 năm sau, năm 602, quân Tàu sang đánh Lý
Phật Tử đầu hàng. Một lần nữa nước ta lại bị lệ thuộc vào sự đô hộ khắc
nghiệt của nhà Tùy bên Tàu . Thời tự chủ kéo dài trong 58 năm đặt nền
móng cho tinh thần chống người Tàu từ phương Bắc của dân tộc ta về sau
này .
* - Bắc Thuộc Lần Thứ Ba(602 - 938)
Năm 602
nhà Tùy cai trị nước ta, nhưng đến năm 618 thì nhà Tùy bị nhà Đường
diệt, Giao Châu lại lệ thuộc vào nhà Đường và đổi tên thành An Nam Đô Hộ
Phủ. Chính sách cai trị của nhà Đường khắc nghiệt nhất so với các triều
đại khác của Trung Hoa, đã vậy quân Lâm Ấp & quân Nam Chiếu thường
sang cướp phá luôn, dân gian khổ sở trăm bề.
Mãi cho đến năm 722,
Mai Thúc Loan người tỉnh Hà Đông nổi lên chống với quân Đường, chiếm
giữ một phần đất ở Hoan Châu (Nghệ An). Nhưng sau đó Mai Thúc Loan yếu
thế thua chạy rồi bị bệnh mất.
Sau cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan,
nhà Đường lại càng siết chặt việc cai trị hơn trước nữa . Năm 791,
Phùng Hưng người tỉnh Sơn Tây đánh đuổi quân Đường về Tàu, lo việc cai
trị sửa sang lại nước được mấy tháng rồi mất. Con là Phùng An lên thay
nhưng thế lực đã suy yếu phải hàng nhà Đường khi xâm chiếm nước ta lần
nữa, dân ta lại lệ thuộc Trung Hoa .
* - Thời Kỳ Chuyển Tiếp
Độc Lập với Dương Diên Nghệ - Ngô Quyền ( 931-938 )
Nhà Nam
Hán đặt Lý Tiến làm Thứ sử Giao Châu từ năm 923 đến năm 931 thì Dương
Diên Nghệ nổi lên đánh đuổi quân Nam Hán, Lý Tiến thua chạy về Tàu.
Dương Diên Nghệ tự xưng làm Tiết Độ Sứ cai trị Giao Châu . Năm 937,
Dương Diên Nghệ bị nha tướng là Kiều Công Tiện giết để chiếm đoạt quyền
hành. Bấy giờ Ngô Quyền là rể Dương Diên Nghệ từ Thanh Hoá ra bắt Kiều
Công Tiện giết đi và phá tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938
khi quân Nam Hán âm mưu chiếm lại nước ta do sự cầu cứu của Kiều Công
Tiện - trước khi chết. Thắng trận Bạch Đằng Ngô Quyền chấm dứt hẳn thời
đại Bắc thuộc kéo dài 1050 năm, mở đường tự chủ cho dân tộc lâu dài từ
năm 938 trở về sau .
III- THỜI ĐẠI ĐỘC LẬP
* - Nhà Ngô
(938 - 965)
Sau khi phá quân Nam Hán, Ngô Quyền xưng vương
(939) đóng đô ở Cổ Loa huyện Đông Anh (Phúc Yên), sửa sang việc cai trị
mong xây dựng một nền tự chủ vững bền cho quốc gia dân tộc. Ngô Quyền
mất năm 944, dần dần về sau thế lực nhà Ngô ngày một suy yếu vì triều
đình không có được những bậc công thần gánh vác việc nước. Đến năm 965
đời vua Ngô Xương Xí, thì mỗi vùng một thổ hào tạo lấy cho mình một thế
lực riêng không tôn phục nhà Ngô nữa, rồi mang quân đánh lẫn nhau, gọi
là loạn Thập nhị sứ quân mà trong đó Ngô Xương Xí cũng là một sứ quân.
Năm 968 Đinh Bộ Lĩnh dẹp tan loạn sứ quân lập nên nhà Đinh.
* -
Nhà Đinh (968 - 980)
Đinh Bộ Lĩnh người động Hoa Lư tỉnh
Ninh Bình, lên ngôi năm 968 lấy hiệu là Đinh Tiên Hoàng, đặt tên nước
Đại Cồ Việt đóng đô ở Hoa Lư, đã có công chăm sóc, sửa sang lại đất nước
sau thời kỳ nội chiến tương tàn. Nhà Đinh cố lo tổ chức việc binh , có
được 10 đạo quân hùng mạnh so với thời bấy giờ. Về sau Đinh Tiên Hoàng
ham mê tửu sắc làm cho triều đình suy yếu đi, đến đời vua cuối cùng là
Đinh Tuệ mới sáu tuổi thì quân Tống sang đánh, Dương Thái Hậu cùng với
các tướng sĩ tôn Thập đạo tướng quân Lê Hoàng lên ngôi để đôn đốc quân
sĩ đánh giặc. Nhà Đinh mất ngôi năm 980 sau 12 năm trị vì.
* -
Nhà Tiền Lê (980 - 1009)
Lê Hoàng lên ngôi lấy hiệu là Đại
Hành Hoàng Đế, đánh tan quân Tống và chinh phạt Chiêm Thành khi Chiêm
Thành bắt sứ giả của ta . Vua Lê Đại Hành chăm lo việc cai trị, tổ chức
quân đội, mở mang nông nghiệp, đúc tiền, đào cảng, mở đường giao
thông...
Năm 1004 vua Lê Đại Hành mất, các vị vua về sau nhu
nhược ham mê tửu sắc, tàn ác, nhà Tiền Lê suy yếu đi và mất ngôi vào năm
1009 về tay nhà Lý.
* - Nhà Lý (1010 -1225)
Vua Lê
Ngọa Triều làm nhiều điều tàn ác lòng dân cũng như triều đình oán giận,
nên khi mất đi thì các quan tôn Lý Công Uẩn đang giữ chức Điện Tiền Chỉ
Huy Sứ lên ngôi .
Lý Công Uẩn lấy hiệu là Lý Thái Tổ, dời đô ra
thành Đại La tức Hà Nội bây giờ. Việc nội trị từ Lý Thái Tổ về sau vô
cùng hoàn bị, các phương tiện hành chánh, chính trị, kinh tế, quân sự,
tôn giáo ... được tổ chức chu đáo . Nhất là vào triều đại của vua Lý
Nhân Tôn (1072-1117) Khoa thi đầu tiên của nước ta được tổ chức, văn học
được chú trọng, quân sự cũng hùng mạnh, Lý Thường Kiệt, Tôn Đản mang
quân sang đánh Tống tận bên Tàu và phá tan giặc Tống sang báo thù (1075 -
1076), chinh phạt Chiêm Thành (1103) làm cho nhà Tống nể sợ, Chiêm
Thành phải triều cống.
Khi Tống sang đánh nước ta, để thúc lòng
quân sĩ chống giặc, Lý Thường Kiệt đã làm bài thơ nổi tiếng sau đây:
Nam Quốc sơn hà Nam Đế cư
Tiệt nhiên định phận tại
thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thử bại
hư
Tiệt nhiên định phận tại
thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thử bại
hư
Về sau, vua Lý Huệ Tôn nhu nhược giao cả binh quyền cho
Trần Thủ Độ, nghe lời Trần Thủ Độ truyền ngôi cho Công Chúa Lý Chiêu
Hoàng mới 7 tuổi để đi tu . Trần Thủ Độ ép Lý Chiêu Hoàng lấy cháu mình
là Trần Cảnh rồi truyền ngôi cho chồng năm 1225, nhà Lý mất nghiệp kể từ
đó.
* - Nhà Trần (1225 -1400)
Trần Cảnh lên làm
vua lúc 8 tuổi, hiệu là Trần Thái Tôn, mọi việc trong nước đều do Trần
Thủ Độ quyết định. Trần Thủ Độ định lại việc việc cai trị, tổ chức một
triều đình có nếp, ấn định thuế má, mở mang nông nghiệp, việc binh bị
cũng được đặc biệt chú trọng để tránh hiểm họa phương Bắc. Văn học đã mở
mang rộng rãi, Nho học, Phật giáo, Lão giáo đều được triều đình chú
trọng. Nhiều nhà Nho, nhà văn nổi tiếng như Mạc Đĩnh Chi, Hàn Thuyên, Lê
Văn Hưu ... được nhắc nhở trong thời đại này .
Năm 1257, sau khi
vó ngựa đã dẫm nát Trung Hoa, biến Trung hoa thành nô lệ cho nhà Nguyên
và làm rung chuyển cả Âu Châu, quân Mông Cổ quay sang bắt đầu đánh nước
ta . Tuy nhiên, chỉ ít lâu sau đạo quân Mông Cổ bị đánh bại tan tành
không còn manh giáp phải chạy về Tàu, đánh dấu cho lần thất bại đầu tiên
của nhà Nguyên ở Việt Nam.
Năm 1284, để phục hận cho lần trước
bị đánh bại, quân Mông Cổ đem 50 vạn quân do Thoát Hoan, Toa Đô, cùng Ô
Mã Nhi tràn sang xâm chiếm nước ta . Trước thế giặc quá mạnh, vua Trần
Nhân Tôn hội họp các Vương Hầu ở Bình Than chia nhau ra chống giặc. Đồng
thời triệu tập các bô lão ở diện Diên Hồng để hỏi nên hòa hay nên chiến
- các bô lão đều đồng thanh xin đánh giặc cả.
Giai đoạn đầu thế
giặc mạnh như nước vỡ bờ, quân ta phải rút lui về giữ những nơi hiểm yếu
. Về sau với những danh tướng tài giỏi như Trần Hưng Đạo, Trần Nhật
Duật, Trần Quốc Toản, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão ... và tinh thần dốc
lòng đánh giặc của toàn dân, nên Toa Đô đã bỏ xác với vô số quân Mông
Cổ, còn Thoát Hoan và Ô Mã Nhi cùng tàn quân chạy trối chết về Tàu . 50
vạn quân Mông Cổ tan rã nhục nhã trong vòng không đầy một năm
(1284-1285). Lần thứ hai nhà Nguyên thảm hại chua cay trước dân tộc Việt
khi đã mở rộng đế quốc của họ ra đến tận Âu Châu .
Để phục thù,
nhà Nguyên đình lại việc đánh Nhật Bản, quay sang đánh nước ta . Thuyền
chiến, lương thực, khí giới, quân lính được chuẩn bị chu đáo, nhà Trần
biết được điều đó cũng lo phòng bị đối phó với giặc. Năm 1287 Thoát
Hoan, Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp dẫn 30 vạn quân cùng với 500 chiến thuyền ào
ạt tràn sang nước ta lần thứ ba .
Giai đoạn đầu, giặc quá mạnh,
vua tôi nhà Trần phải lánh vào Thanh Hóa để tránh mũi dùi của giặc và
kêu gọi khắp nơi cầm cự với quân Nguyên. Về sau quân ta bắt được thuyền
lương của giặc từ bên Tàu chuyển qua ở Vân Đồn làm cho quân Mông Cổ run
sợ - để rồi một lần nữa sóng nước Bạch Đằng đã nhận chìm vô số quân Mông
Cổ và Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp với 400 chiến thuyền bị quân ta bắt được.
Trên đường chạy trốn về nước, Thóat Hoan còn bị Phạm Ngũ Lão phục binh
đánh cho một trận tơi bời, chạy trối chết về Tàu .
Đạo quân Mông
Cổ mà vó ngựa đã từng dẫm nát lục địa Trung Hoa, xâm chiếm Nga-la-tư
rộng lớn, đánh tan các đội kî binh Âu Châu, làm run chuyển một phần lớn
vùng này, với ba lần thất bại, đã phải cúi đầu trước sức kháng cự của
dân tộc Việt mà từ bỏ mộng xâm lăng nước ta, cho đến khi nhà Nguyên bị
diệt bên Tàu .
Về cuối đời nhà Trần, các vua nhu nhược, triều
chính không người coi sóc, binh bị sao lãng để ba lần quân Chiêm Thành
đánh phá đến tận Thăng Long. Vào năm 1390, vua Chiêm là Chế Bồng Nga lại
kéo quân sang đánh, bị Trần Khắc Chân bắn chết từ đó giặc Chiêm mới
yên. Tuy nhiên nhà Trần đã suy sụp lắm rồi nên Lê Quý Ly lộng quyền âm
mưu diệt trừ các thế lực của nhà Trần dần dần, cho đến năm 1400 thì soán
đoạt ngôi của Thiếu Đế. Nhà Trần mất nghiệp sau 175 năm trị vì.
*
- Nhà Hồ (1400-1407)
Lên ngôi rồi, Lê Quý Ly đổi trở lại là
Hồ Quý Ly, đặt tên nước Đại Ngu, đóng đô ở Tây Đô (Thanh Hóa) Nhìn
chung, nhà Hồ tuy ở ngôi có 7 năm nhưng đã làm được rất nhiều như: giảm
thuế đinh, thuế điền, đặt ra thuế thuyền buôn, những quả phụ cô nhi và
những người không có ruộng đất được miễn thuế. Hồ Quý Ly còn có sáng
kiến in giấy bạc để thay cho tiền đồng, nhằm tiện việc buôn bán, làm
giàu cho ngân khố. Việc học hành thi cử cũng thay đổi rất nhiều: đặt ra
thêm môn thi toán pháp, dùng chữ Nôm để giảng dạy khắp trong nước và
soạn thảo công văn, sớ biểu . Phật Giáo cuối đời nhà Trần suy yếu đi
nhiều vì thiếu những bậc chân tu sâu sắc . Ngoài ra nhà Hồ lại đặt ty
y-tế để lo việc thuốc thang cho dân, đồng thời nhà Hồ cũng chú ý rất
nhiều đến việc tổ chức binh bị để tránh hiểm họa phương Bắc. Năm 1042
nhà Hồ mang quân đánh Chiêm Thành, di dân vào khai phá Quảng Nam và
Quảng Ngãi ngày nay, mở rộng bờ cõi về phương Nam.
Tuy nhiên, về
sau khi quân Minh sang đánh với chiêu bài khôi phục cho nhà Trần, nhiều
cựu thần còn tưởng nhớ tới thời vàng son của nhà Trần nên theo giặc rất
đông, đồng thời quan niệm về chiến thuật của nhà Hồ sai lầm nên năm
1407, Hồ Quý Ly và con cháu thua trận bị bắt giải về Tàu, giữa đường tự
tử chết, nhà Hồ mất nghiệp sau 7 năm.
* - Nhà Hậu Trần (1409 -
1413)
Quân Minh sau khi đánh bại Hồ Quý Ly, âm mưu chiếm
luôn nước ta . Trước dã tâm đó của quân Minh, con cháu của nhà Trần và
nhiều cựu thần, anh hùng hào kiệt không muốn làm nô lệ, bất hợp tác với
chúng. Do đó, quân Minh luôn luôn gặp sự chống đối của con cháu nhà Trần
được sự ủng hộ của toàn dân và nhiều người tài giỏi .
Năm 1407,
Trần Quỹ con thứ của vua Trần Nghệ Tôn xưng là Giản Định Đế chiêu mộ
quân chống giặc Minh. Đầu năm 1409 thì Giản Định Đế vào Thanh Hóa để phụ
với Trần Quý Khoách là cháu Trần Nghệ Tôn cùng lo việc khôi phục. Được
nhiều người tài giỏi giúp sức nhà Hậu Trần đánh nhau với quân Minh mãi
cho đến năm 1413 thì tan vỡ, từ đó nước ta mới lệ thuộc hẳn nhà Minh bên
Tàu.
* - Nước Ta Thuộc Nhà Minh (1414 - 1427)
Đến
năm 1414, nhà Minh chính thức cai trị nước ta, một chính sách rất chặt
chẽ và khắc nghiệt về mọi phương diện. Về hành chánh phân chia nước ta
ra làm nhiều cấp để cai trị, nhiều thứ thuế mới được đặt ra, bắt dân lên
rừng săn ngà voi, xuống biển mò ngọc trai nộp cho chúng. Đồng hóa dân
ta với Tàu bằng mọi cách, chỉ cho phép lưu hành Tứ Thư Ngũ Kinh của
Trung Hoa mà thôi, trong khi sách vở quý giá của ta từ đời Trần trở về
trước thì chúng tóm thâu cho hết về Tàu . Chúng bắt dân ta phải thờ cúng
Thần thánh của Trung hoa theo các phong tục Trung Hoa .
* -
10 Kháng Chiến Chống Quân Minh (1418 - 1427): Lê Lợi
Lê Lợi
là một phú nông ở làng Lam Sơn (Thanh Hóa), trước sự tàn ác dã man của
quân Minh, năm 1418 Lê Lợi được nhiều người tài giúp sức đã phất cờ khởi
nghĩa đánh đuổi giặc Minh.
Trong giai đoạn đầu Lê Lợi phải vất
vả rất nhiều, có lần phải xin tạm hòa với giặc, phải để cho gia đình bị
giặc bắt, cũng như để cho tùy tướng thân cận là Lê Lai liều mình cứu
khỏi vòng vây .
Về sau, nhờ Nguyễn Trãi bày mưu ta thắng giặc
nhiều trận, vây tướng Minh là Vương Thông ở Đông Đô (Hà Nội), chém Liễu
Thăng ở Chi Lăng khi Liễu Thăng mang quân giải cứu Vương Thông.
Cuối
cùng năm 1427, Vương Thông phải đầu hàng để kết thúc 10 năm gian khổ
giành độc lập của Lê Lợi cùng toàn dân.
* - Hậu Nhà Lê
(1428-1527)
Lê Lợi lên ngôi năm 1428 lấy niên hiệu là Lê Thái
Tổ, đặt tên nước là Đại Việt đóng đô ở Thăng Long. Chia đất nước ra làm
5 đạo, đặt quan cai trị. Tại triều có quan Tả Hửu tướng quốc đứng đầu
các quan, có Thượng Thư đứng đầu các bộ Lại, Lễ, Hộ, Binh, Hình, Công.
Nông nghiệp được khuyến khích, đắp đê để tránh lụt, mở thêm đồn điền,
khai khẩn đất hoang, qui định thuế má rõ ràng, và định lại phép cân đo .
Bộ Luật Hồng Đức ban bố vào triều vua Lê Thánh Tôn rất hoàn bị được xem
như khuôn mẫu cho các luật lệ về sau này . Văn học cũng được chú trọng
đặc biệt, Nho học cực thịnh. Triều đình đặt ra lệ xướng danh, khắc tên
vào bia đá và cho về vinh qui bái tổ những người thi đỗ tiến sĩ để
khuyến khích việc học. Rất nhiều văn tài đã xuất hiện cũng như những tác
phẩm văn chương giá trị được viết trong triều đại này . Tuy nhiên, Phật
giáo và Lão giáo lúc bấy giờ đang trên đà suy tàn, nhường bước cho Nho
giáo đang phát triển vượt bậc.
Việc binh bị cũng được chú ý rất
kỹ, các vua nhà hậu Lê nhiều lần mang quân sang chinh phạt Chiêm Thành.
Trong các năm 1446, 1470 quân ta chinh phạt Chiêm Thành đánh phá đến tận
kinh đô Chiêm là thành Đồ Bàn, bắt được vua Chiêm và Cung phi đem về
Thăng Long. Năm 1471 vua Lê Thánh Tôn chinh phạt Chiêm rồi cho quân ở
lại giữ, sau đó đưa quân vào khai khẩn mở đồn điền lập ra đất Quảng bây
giờ. Từ đó, Chiêm Thành bắt đầu suy vong mở đường tiến cho các Chúa
Nguyễn vào miền Nam sau này .
Ngoài ra, năm 1479 nhà Hậu Lê còn đánh
dẹp quân Ai-lao và quân Bồn Man là xứ nằm ở phía tây Nghệ An khi hai xứ
này liên kết nổi lên chống lại Đại Việt.
Tuy nhiên, bắt đầu từ
năm 1504 thì nhà Hậu Lê suy dần với Lê Uy Mục, Lê Tương Dực, Lê Chiêu
Tôn, Lê Cung Hoàng... đều là những vị vua bất tài, nhu nhược, xa xỉ, tàn
bạo ... Giặc giã nổi lên khắp nơi đánh phá, triều đình không dẹp được.
Triều chính suy yếu, các quân chia phe cánh đánh lẫn nhau cho đến năm
1527 thì bị Mạc Đặng Dung cướp ngôi, nhà Hậu Lê mất sau 100 năm trị vì.
*
- Nhà Mạc (1527-1592)
Mạc Đặng Dung cướp ngôi nhà Hậu Lê,
lên làm vua hiệu là Minh Đức, vẫn giữ nguyên nề nếp cũ của nhà Lê chứ
không sửa đổi gì cả. Tuy nhiên họ Mạc vẫn không thu phục được lòng dân
còn tưởng nhớ đến nhà Lê, nên rất nhiều người nổi lên chống phá.
Trong
đó có Nguyễn Kim là con Nguyễn Hoằng Dụ, một cựu thần nhà Lê năm 1532,
lập con vua Lê Chiêu Tôn lên làm vua tức Lê Trang Tôn rồi bắt đầu công
cuộc trùng hưng nhà Hậu Lê . Ngoài ra họ Mạc còn gánh chịu hiểm họa xâm
lăng của phương Bắc. Năm 1540 Mạc Đăng Dung phải đầu hàng, dâng đất cho
nhà Minh để được bãi binh & phong chức Đô Thống Sứ.
Sau cùng,
Trịnh Tùng giúp nhà Lê trùng hưng bắt giết được Mạc Mậu Hợp năm 1592,
nhà Mạc coi như mất ngôi. Con cháu chạy lên Cao bằng nương nhờ thế lực
nhà Minh một thời gian nữa rồi mất hẳn vào năm 1667.
* - Nhà
Lê Trung Hưng (1532-1778)
Có thể tính nhà Lê Trung Hưng bắt
đầu vào năm 1532, khi Lê Trang Tôn lên ngôi. Tuy nhiên bấy giờ nhà Lê đã
suy yếu lắm rồi, chỉ còn hư vị nhìn Trịnh Tùng xưng Chúa đất Bắc năm
1570, Nguyễn Hoàng làm Chúa miền Nam năm 1572 và nhà Mạc ở đất Cao Bằng
mang quân đánh lẫn nhau gần nửa thế kỉ để rồi mất hẳn nghiệp vào năm
1778 ở đời vua Lê Chiêu Thống, khi 20 vạn quân Thanh bị đánh tan do sự
cầu cứu của Lê Chiêu Thống.
IV - THỜI NAM BẮC PHÂN TRANH
(1572-1802)
* - Trịnh Nguyễn Phân Tranh
Ngay sau
khi Nguyễn Kim chết, con Nguyễn Kim là Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng còn
nhỏ, binh quyền về tay rể Nguyễn Kim là Trịnh Kiểm thì mầm móng chia rẻ
Trịnh-Nguyễn đã phát sinh. Về sau vì sợ Nguyễn Uông tranh quyền, Trịnh
Kiểm dùng mưu giết Nguyễn Uông đi, Nguyễn Hoàng lo sợ nói với chị là
Ngọc Bảo xin Trịnh Kiểm cho vào đất Thuận Hóa phía Nam năm 1558. Tuy
nhiên sau đó Nguyễn Hòang vẫn bị Trịnh Kiểm và Trịnh Hùng gọi ra Bắc để
kiềm chế lấy cớ là dẹp loạn, mãi cho đến năm 1572 Nguyễn Hoàng nhân một
chuyến đi dẹp loạn trốn được vào Nam, từ đó có cuộc phân tranh
Trịnh-Nguyễn chính thức.
Ở Bắc, các Chúa Trịnh kể từ Trịnh Tùng
lo sửa sang quan chế, giảm nhẹ hình phạt, cho khai mỏ, mở cảng Phố Hiến,
mở mang thương mại . Mở trường võ bị, đặt lệ thi võ, sai người viết sử
lại, khắc bảng gỗ in sách vở để không mua của Trung Hoa nữa, đánh dẹp
các cuộc nổi loạn... thực quyền nằm ở Phủ Chúa, các vua Lê nối tiếp nhau
chỉ có hư vị.
Ở Nam, các Chúa Nguyễn kể từ Nguyễn Hoàng tổ chức
việc hành chánh, đặt thuế xuất nhập cảng, mở cảng Hội An, đặt lệ thi để
chọn nhân tài, mở trường đúc súng đại bác, tập bắn... Nhưng công nghiệp
quan trọng nhất của các chúa Nguyễn là mở mang bờ cõi về phương Nam. Lúc
vào trấn Thuận Hoá, lãnh thổ nước ta chỉ có đến Bình Định ngày nay, sau
các Chúa Nguyễn lần lượt chiếm nốt đất của Chiêm Thành và thu nhận đất
Thủy Chân Lạp từ tay người Chân Lạp để lập ra miền Tây Nam phần ngày nay
.
Bắt đầu từ năm 1627, hai bên mang quân đánh lẫn nhau, chiến
trường thường là vùng Quảng Bình, kéo dài 45 năm với 7 trận đánh không
phân thắng bại cuối cùng năm 1672 mới giảng hòa chia đôi đất nước, lấy
sông Gianh làm ranh giới giữa đôi bên. Hòa bình kéo dài được 100 năm,
cho đến lúc anh em Tây Sơn dấy nghiệp ở đất Qui Nhơn thì chấm dứt.
Cũng
trong thời gian phân tranh này, người Âu Châu bắt đầu tiếp xúc với Việt
Nam ở cả đàng trong lẫn đàng ngoài trong việc buôn bán và truyền đạo
Thiên Chúa.
Cuối cùng hai bên suy yếu đi vì các Chúa chơi bời xa
xỉ không lo việc nước, triều thần lộng quyền, lòng dân không còn phục
nữa giặc cướp nổi lên đánh phá khắp nơi, để đến năm 1777 anh em Tây Sơn
dứt nghiệp Chúa ở miền Nam chỉ còn cháu Chúa Nguyễn là Nguyễn Ánh chạy
thoát và dứt Chúa Trịnh năm 1786 ở miền Bắc.
Đồng thời vua Lê
Chiêu Thống nhu nhược không tổ chức được triều chính khi anh em Tây Sơn
ra Bắc diệt họ Trịnh xong rồi rút quân về miền Nam. Năm 1788 Nguyễn Huệ
ra Bắc lần thứ hai, Lê Chiêu Thống chạy sang Tàu cầu cứu nhà Thanh, họ
Lê mất hẳn ngôi vào lúc đó.
Tuy nhiên, tình hình vẫn chưa ổn định
được, anh em Tây Sơn bất hòa đánh lẫn nhau, quân Thanh xâm lăng nước
ta, Nguyễn Phúc Ánh đánh phá miền Nam... mãi cho đến năm 1802 Gia Long
mới thống nhất được đất nước.
* - Nhà Tây Sơn (1778-1802)
Anh
em Tây Sơn : Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ người làng Tây Sơn tỉnh
Quy Nhơn, năm 1771 dựng cờ khởi nghĩa, quy tụ được rất nhiều người bất
mãn với chế độ nổi lên chống lại phía Nguyễn khi quyền thần Trương phúc
Loan làm nhiều điều tàn ác, tham lam dân chúng khổ sở.
Đầu tiên
anh em Tây Sơn dùng mưu lấy Quy Nhơn, rồi chẳng bao lâu đánh chiếm luôn
Phú Xuân (Huế) đuổi Chúa Nguyễn cùng cháu là Nguyễn phúc Ánh chạy vào
Gia Định. Nhưng sau đó họ Trịnh từ Bắc đánh vào, Chúa Nguyễn từ Nam đánh
ra, Tây Sơn ở giữa phải giả hàng Chúa Trịnh để quay vào đánh Chúa
Nguyễn. Từ đó Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ dùng mưu đánh lấy đất Gia Định, Chúa
Nguyễn bị bắt giết, cháu là Nguyễn phúc Ánh chạy thoát năm 1777, chấm
dứt nghiệp Chúa ở miền Nam.
Năm sau, năm 1778 Nguyễn Nhạc tự xưng
đế, đặt niên hiệu là Thái Đức, lấy thành Đồ Bàn làm kinh đô, phong tặng
cho Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ.
Nhân khi miền Bắc có loạn năm 1782,
vua Tây Sơn sai Nguyễn Huệ đánh chiếm đất Thuận Hóa, sau đó Nguyễn Huệ
ra Bắc truyền hịch phù Lê diệt Trịnh, bắt giết được Trịnh Khải năm 1786,
họ Trịnh mất hẳn từ đó.
Anh em Tây Sơn rút quân về Nam, Nguyễn
Huệ được vua Lê Hiển Tôn phong làm Nguyên Soái và gả con gái là Công
chúa Lê Ngọc Hân. Sau đó vua Lê Hiển Tôn mất, Lê Chiêu Thống kế vị bất
tài nhu nhược các tướng chuyên quyền, nên năm 1788 Nguyễn Huệ ra Bắc lần
thứ 2 bắt giết các tướng có ý phản, vua Lê Chiêu Thống chạy trốn tìm
người trung nghĩa lo khôi phục, nhưng thế lực đã suy tàn cơ nghiệp nhà
Hậu Lê từ năm này coi như chấm dứt. Về sau Lê Chiêu Thống cầu cứu nhà
Thanh nhưng cũng không thành công.
Cũng trong thời gian đó thì
anh em Tây Sơn bất hòa đánh lẫn nhau, nên năm 1788 Lê Chiêu Thống cầu
cứu nhà Thanh, Tôn Sĩ Nghị mang 20 vạn quân xâm chiếm Bắc Hà thì Nguyễn
Huệ ở Phú Xuân lên ngôi hoàng đế, niên hiệu là Quang Trung rồi đem quân
ra Bắc. Với những trận đánh ở Hà Hồi, Ngọc Hồi, Đống Đa .... Hứa Thế
Thành, Tôn Sĩ , Sầm Nghi Đống... bỏ xác tại trận và 20 vạn quân Thanh bị
đánh tan trong vòng 5 ngày . Tôn Sĩ Nghị chạy trốn về Tàu bỏ cả ấn tín
Lê Chiêu Thống vội vã chạy theo, sống lưu vong với đám tùy tùng rồi chết
ở bên đó.
Phá tan quân Thanh rồi, vua Quang Trung cải cách được
nhiều việc, chuẩn bị binh lính để đánh Trung hoa, nhưng chỉ được mấy năm
rồi mất sớm, truyền ngôi lại cho con là Quang Toản. Từ đó thế lực Tây
Sơn suy tàn, trong khi ở miền Nam , Nguyễn Phúc Ánh được nhiều ngươ ;øi
tài giỏi giúp sức mỗi ngày mỗi mạnh lên, để đến năm 1802 thì dứt nhà Tây
Sơn thống nhất đất nước sau gần 200 năm phân chia nội chiến
-NHÀ
NGUYỄN (1802-1945)
Lên ngôi năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh lấy
hiệu là Gia Long, đóng đô ở Huế, đặt tên nước Việt Nam, tổ chức triều
chính, mở trường học ở khắp nơi, tổ chức các khoa thi để chọn người làm
quan, Nho học được chú trọng. Nhà Nguyễn cũng chăm lo tổ chức quân đội,
đánh dẹp các cuộc nội loạn nhất là dưới thời Minh Mạng, Tự Đức. Về luật
pháp cũng được sửa đổi ít nhiều qua bộ luật Gia Long, triều đình còn
khuyến khích mở mang nông nghiệp, đào kinh dẫn nước vào ruộng và tiện
việc giao thông ở miềnTây Nam phần.
Nguyễn Trường Tộ là người
tinh thông Nho học và được du học ở các quốc gia Tây phương. Khi về nước
đã dâng lên vua Tự Đức những bản điều trần xin cải cách canh tân xứ sở.
Nhưng triều đình Huế bấy giờ chỉ là những nhà Nho thấm nhuần tư tưởng
Đông phương, bảo thủ, nghi ngờ không dám bỏ cũ theo mới . Nên trước kia
trong các năm 1821,1822,1835 nhiều phái đoàn Anh, Mỹ, Pháp đến xin thông
thương, buôn bán đều bị từ chối; cho nên những bản điều trần của Nguyễn
Trường Tộ cũng chịu chung số phận, các quan lại già nua tham quyền cố
vị lo sợ những người mới tranh hết quyền hành, đồng thời tình hình cũng
rối ren do đó dần dần những đề nghị của Nguyễn Trường Tộ bị bỏ dở không
thực hiện gì cả.
VI - CUỘC XÂM LĂNG CỦA NGƯỜI PHÁP VÀO VIỆT
NAM (1858-1884)
Cuối thế kỷ 18, người Pháp bắt đầu dòm
ngó đến Việt Nam trong việc mở rộng thuộc địa . Năm 1858 Pháp bắt đầu
xâm lăng Việt Nam, thì 4 năm sau, năm 1862 hòa ước Nhâm Tuất ký giữa
triều đình Huế (do Phan Thanh Giản đại diện) và Pháp nhường dứt cho Pháp
ba tỉnh miền Đông Nam phần Gia-định, Định-tường, Biên-hòa mở đầu cho
những hòa ước sau này dẫn đến việc Việt Nam rơi vào tay Pháp.
Năm
1863, Phan Thanh Giản cầm đầu phái bộ sang Pháp điều đình chuộc đất,
nhưng bất thành. Sau khi về nước, Phan Thanh Giản được cử làm
Kinh-lược-sứ ba tỉnh miền Tây Nam phần Vĩnh long, An giang, và Hà tiên
để lo chống việc Pháp.
Pháp đem quân đánh, Phan Thanh Giản uống
thuốc độc chết, ba tỉnh thất thủ, sáu tỉnh Nam phần rơi vào tay Pháp.
Chiếm xong sáu tỉnh miền Nam Pháp lăm le đất Bắc, Nguyễn Tri Phương được
cử giữ thành Hà Nội, Pháp đem quân đánh Hà nội lần thứ nhất, Nguyễn Tri
Phương cùng con là phò mã Nguyễn Lâm chết theo thành khi thành mất.
Trước
thất bại này, triều đình phải ký với Pháp hòa ước năm Giáp Tuất (1874),
nhường cho Pháp sáu tỉnh Nam Phần, đổi lại Pháp trả Hà Nội cho Việt
Nam.
Tuy nhiên Pháp vẫn dòm ngó đất Bắc, Hoàng Diệu được cử là
Tổng Đốc Hà nội để lo đối phó với giặc Pháp. Năm 1882 Pháp mang quân
đánh Hà-nội lần thứ hai, vì có người phản bội đốt kho thuốc súng nên
thành Hà-nội thất thủ, Hoàng Diệu thắt cổ chết, đất Bắc lọt vào tay Pháp
lần nữa .
Giữa lúc tình thế rối ren, năm 1883 vua Tự Đức băng
hà, triều đình Huế bị xáo trộn vì Nguyễn văn Tường và Tôn Thất Thuyết
trong vòng mấy tháng phế lập liên tiếp các vua Hiệp Hòa, Kiến Phúc, Hàm
Nghi
Sau khi lên ngôi, vua Hàm Nghi cùng với Tôn Thất Thuyết và các
văn thân tổ chức đánh úp Pháp ở đồn Mang Cá - gần kinh thành, nhưng
không thắng được. Kinh đô Huế thất thủ, Nguyễn văn Tường và Tôn Thất
Thuyết đưa vua Hàm Nghi chạy ra Quảng Bình truyền hịch Cần Vương kêu gọi
các sĩ phu cùng tòan dân đứng ra cứu nước.
Triều đình Huế còn
lại phải ký với chính phủ Pháp hoà ước Patenotre (1884) chấp nhập sự đô
hộ của Pháp ở Bắc Kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ là đất thuộc địa. Nhà Nguyễn
mất thực quyền bắt đầu vào năm này và Việt Nam rơi vào vòng đô hộ của
thực dân Pháp kể từ đó.
Nguồn: chuyen-qb.com