THPT chuyên Lê Quí Đôn- Khánh Hòa

Đăng nhập để tham gia ngay forum của trường THPT chuyên Lê Quí Đôn- Nha Trang- khánh Hòa

Join the forum, it's quick and easy

THPT chuyên Lê Quí Đôn- Khánh Hòa

Đăng nhập để tham gia ngay forum của trường THPT chuyên Lê Quí Đôn- Nha Trang- khánh Hòa

THPT chuyên Lê Quí Đôn- Khánh Hòa

Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Diễn đàn Trường THPT Chuyên Lê Qúy Đôn- Nha Trang

[B]I. QUY ĐỊNH CHUNG NHẤT 1/ Không phân biệt tôn giáo, chính trị, giới tính, ........ 2/ Nghiêm cấm các hoạt động tuyên truyền, lưu hành, post, những tư tưởng, văn hóa phẩm đồi trụy, ***, phản động chống lại nhà nươc CHXHCN ... 3/ Diễn đàn là nơi chung của mọi người, không phải là của riêng cá nhân bất kì ai. 4/ Giữ không khí hòa bình, vui vẻ giữa các câu lạc bộ, tổ chức và các cá nhân. 5/ Nghiêm cấm spam, farm bài post Những nội quy về nội dung bài post I – Định nghĩa spam. -Spam là một hình thức phá hoại diễn đàn. -Spam là những bài viết quá ngắn (dưới 10 từ, trừ các bài gởi mục đích đăng kí tham gia một hoạt động nào đó khi có yêu cầu), nội dung không khớp với chủ đề (topic) và không có tính đóng góp xây dựng -Spam là các bài có nội dung xấu, gây nghi ngờ bất hoà giữa các làng và các cá nhân. -Spam là các bài post lại nằm theo phần cách nhau (vd Part I, II ....) không gộp lại !! -Spam là các bài dưới dạng hình thức cốt để đua top, nâng chakra......... >Hình phạt Lần 1: Yêu cầu Member Edit lại bài, nhắc nhở lần đầu. Lần 2: Nhắc nhở lần 2. Lần 3: Xóa bài, Ban nick 1 tuần. Lần 4: Xóa bài, Ban nick 2 tuần. Lần 5: Xóa bài, Ban nick vĩnh viễn. II. Bài Post : Nghiêm cấm đặt tên topic là : Thông báo , chú ý hoặc tương tự . Chú ý VIẾT CHỮ TIẾNG VIỆT CÓ DẤU , viết bài đúng box , cần có nội dung hay chứ không phải nhảm nhí , vô nghĩa, copy nguyên xi . Khi post bài với nội dung hình ảnh hay link nhiều thì nên để trong thẻ Hide và spoiler Bài Post cần viết đủ dài (nếu post hình hay clip thì không post hình theo kiểu 1 bài 1 hình hay clip, nên dồn hết tất cả vào 1 bài vào 1 topic) Không được đưa liên kết (link) có tính chất phá hoại như: trojan virus....v...v..... Không quảng cáo hoặc đưa link quảng cáo (đã có topic riêng) Chữ kí : - Không để hình quá to hoặc quá dài, kích cỡ tối đa là ~ 500x100 px - Cỡ chữ size từ 8 - 12, nếu toàn bộ chữ thì không quá 15 dòng, nếu có hình thì hình và chữ không quá to (~ 15 dòng) - Nội dung không gây hiềm khích với các thành viên khác hoặc thô tục, không đúng với thuần phong mỹ tục Việt Nam - Không để quá 2 hình theo chiều dọc trong chữ kí - Không mang nội dung tuyên truyền xấu, độc hại hay spam . Lưu ý : Riêng đối với chữ ký của Mod có thể dùng size to hơn trong trường hợp để chữ ký làm thông báo nhưng tuyệt đối không lạm dụng. Admin không thể suốt ngày ở forum được , nhiều chuyện sẽ phải do S-Mod tự quyết định ( trong thẩm quyền của mình) . Các S-Mod có nhiệm vụ phải quản lý về member và bài viết trong toàn forum , thẳng tay del những bài vi phạm quy định của diễn đàn , xử lý những việc trong thẩm quyền của mình và báo cáo cho người có thẩm quyền cao hơn. Nội quy được áp dụng từ ngày 04/14/2010 Đề nghị các mem kiểm tra lại chữ ký của mình. Mọi chữ ký sai phạm đều có thể bị sửa lại bởi BQT khi phát hiện vi phạm mà không cần báo trước. Những box con trong forum cũng có quy định riêng nên bắt buộc khi thành viên post bài thì phải tuân thủ nội quy mà box mình định post. Ngoài những quy định trên Và để mọi người có sân chơi vui vẻ , yêu cầu Members nên tôn trọng BQT , bản thân và những member khác. Ai không tuân thủ sẽ ban nick ngay lập tức. ----------------------------------------------------------BQT FORUM----------------------------------------------------------[B/]

    Triều đại phong kiến nước ta

    Rey1000
    Rey1000
    Administrator
    Administrator


    Posts : 36
    sP : 250979974
    Join date : 14/04/2010

    Triều đại phong kiến nước ta Empty Triều đại phong kiến nước ta

    Bài gửi by Rey1000 Tue Apr 20, 2010 3:27 pm

    Ngày mai các anh em lớp 10 sẽ thi học kì môn Sử nên tớ sẽ post topic này giúp anh em làm bài.

    * - Họ Hồng Bàng


    Việt Nam tổ chức thành xã hội từ khoảng
    gần 3000 năm trước Công Nguyên (Thiên Chúa giáng sinh) và họ Hồng Bàng
    làm vua 18 đời kéo dài 2621 năm (2879-258 trước công nguyên). Đây chỉ là
    một truyền thuyết và chúng ta có thể tạm chấp nhận được, để giải thích
    về nguồn gốc dân tộc khi mà chưa có một giải thích khoa học chính xác
    hơn.

    Việt Nam bấy giờ có tên là Văn Lang, kinh đô đặt ở Phong
    Châu nay thuộc tỉnh Vĩnh Yên (Bắc Phần). Lãnh thổ gồm Bắc Việt và ba
    tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh bây giờ. Ngoài triều đình có các hàng
    quan lại, ở địa phương còn có quan võ gọi là Lạc tướng, quan văn là Lạc
    hầu, đều có thái ấp riêng. Sinh hoạt về vật chất còn thô sơ, có những
    tục vẽ mình, nhuộm răng, ăn trầu, theo chế độ Mẫu Hệ... tôn thờ các sức
    mạnh thiên nhiên như Thần núi, Thần sông, Thần gió...

    Đến đời
    Hùng Vương thứ 18, Thục Phán ở phía Bắc Văn Lang sang đánh, Hùng Vương
    thua nhảy xuống sông tự tử năm 258 trước công nguyên

    * - An
    Dương Vương- Triệu Đà


    Thục Phán tự xưng làm vua năm 257 trước
    Tây lịch hiệu là An Dương Vương, đóng đô ở Phong Khê (Phúc Yên) và cho
    xây dựng thành Cổ Loa rất kiên cố. Lúc bấy giờ, bên Tàu Tần Thủy Hoàng
    thống nhất thiên hạ, sai Đồ Thư mang quân sang đánh Âu Lạc. Nhưng sau 10
    năm đánh nhau, Đồ Thư bị giết, quân Tần phải rút lui . Đây là lần đầu
    tiên Âu Lạc chống lại quân xâm lược từ phương Bắc của Trung Hoa .

    Ít
    lâu sau, Triệu Đà từ quận Nam Hải (Quảng Đông bây giờ) sang đánh Âu
    Lạc, An Dương Vương mắc mưu thua chạy, rồi tự tử. Từ đó Triệu Đà sát
    nhập Âu Lạc vào quận Nam Hải và Quế Lâm (Quảng Tây) tạo thành nước Nam
    Việt lên ngôi vua lấy hiệu là Triệu Vũ Vương đóng đô ở Phiên Ngung
    (Quảng Đông)

    * - Nhà Tiềng Hán Xâm Lăng Việt Nam

    Bấy
    giờ ở Trung Hoa là triều đại Tiềng Hán, năm 916 Triệu Vũ Vương giao
    thiệp với nhà Hán. Sau Triệu Vũ Vương là các vua Văn vương, Minh vương
    & Ai vương đều bất tài nhu nhược. Đời vua Ai Vương, nhà vua còn nhỏ,
    Cù Thị là mẹ của Ai Vương vốn gốc người Hán, xúi giục Ai Vương đem đất
    nước dâng nhà Hán. Tể tướng Lữ Gia can ngăn không được, phải bắt giết cả
    hai mẹ con Cù Thị, rồi lập anh của Ai Vương lên làm vua lo chuẩn bị
    chống lại nhà Hán. Sau đó nhà Hán sai tướng Lỗ Bác Đức sang đánh, Lữ Gia
    yếu thế bị bắt giết, mở đầu cho một thời đại Bắc thuộc đen tối của dân
    tộc.

    II- THỜI ĐẠI BẮC THUỘC

    * - Bắc Thuộc Lần Thứ Nhất
    (111 trước công nguyên - 39 sau công nguyên)


    Sau khi chiếm
    Nam Việt, nhà Hán đặt nền đô hộ đầu tiên của phương Bắc lên nước ta .
    Nam Việt bị đổi thành một bộ của Trung Hoa gọi là Giao Chỉ bộ chia ra
    làm nhiều quận nhỏ, mỗi quận có quan lại người Tàu cai trị. Trong suốt
    thời gian Bắc thuộc lần thứ nhất kéo dài 150 năm, kể từ năm 111 TCN cho
    đến năm 39 SCN, dân tộc ta chịu trăm điều khổ sở vì các thái thú người
    Tàu đại đa số tham lam, tàn ác, luôn luôn vơ vét của dân cho đầy túi
    tham, ngoài phần đóng thuế cho triều đình Trung Hoa

    * - Cuộc
    Khởi Nghĩa Của Hai Bà Trưng


    Năm 34 sau công nguyên, Tô Định
    làm Thái thú quận Giao Chỉ là một người tham lam tàn bạo dân chúng vô
    cùng oán hận. Tô Định giết Thi Sách là con Lạc Tướng Châu Diên (Vĩnh
    Yên) khi Thi Sách mưu việc chống Tàu . Vợ Thi Sách là Trưng Trắc cùng
    với em Trưng Nhị nổi lên đánh đuổi Tô Định báo thù cho chồng rửa hận cho
    nước, Tô Định thua chạy về Tàu năm 40 SCN chấm dứt sự đô hộ của nhà Hán
    đối với Nam Việt lần thứ nhất. Hai Bà lên ngôi vua đóng đô ở Mê Linh
    (năm 40SCN) . Năm 41 danh tướng nhà Hán là Mã Viện mang quân sang đánh,
    cầm cự cho đến năm 43 thì Hai Bà thất trận chạy đến sông Hát Giang rồi
    trầm mình. Từ đó nước ta lệ thuộc Trung Hoa lần thứ hai .

    * -
    Bắc Thuộc Lần Thứ Hai


    Sau khi thắng được Hai Bà Trưng, Mã
    Viện cho tổ chức việc cai trị chặt chẽ hơn trước, các Lạc hầu Lạc tướng
    bị tước hết quyền hành, nước ta coi như một phần đất của Trung Hoa . Các
    Thái Thú thẳng tay đàn áp, thi hành chính sách đồng hóa dân ta: cách ăn
    mặc, nhà ở, phong tục, học hành, lễ giáo ... đều bắt buộc phải theo
    Tàu, về sau đổi tên nước ta lại là Giao Châu . Các quan Tàu đều tham
    lam, tàn ác, dân ta vô cùng khổ sở phải lên rừng săn voi lấy ngà, xuống
    biển mò ngọc trai dâng nạp cho quan Tàu . Trong suốt 501 năm (43-544)
    trải qua các triều đại khác nhau của Trung Hoa dân ta phải luôn luôn
    gánh chịu những áp bức của người Tàu đô hộ. Tuy nhiên trong khoảng thời
    gian dài đăng đẳng đó, cũng có cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu năm 248, tuy
    không thành công trong việc đánh đuổi người Tàu nhưng đã nói lên tinh
    thần ái quốc của dân tộc, ảnh hưởng lớn lao đến các cuộc khởi nghĩa sau
    này.

    * - Cuộc Khởi Nghĩa Của Lý Bôn Chấm Dứt Bắc Thuộc Lần II -
    Nhà Tiền Lý (544-602)


    Trong thời Nam Bắc triều bên Tàu, đất
    Giao Châu thuộc nhà Lương. Thứ Sử Tiêu Tư làm nhiều điều tàn ác, lòng
    người oán giận đồng thời quân Lâm Ấp là nước ở cạnh Giao Châu thường
    sang cướp phá luôn, dân chúng vô cùng khổ sở. Năm 541, Lý Bôn người
    huyện Thái Bình (Sơn Tây) nổi lên đánh đuổi Tiêu Tư và dẹp tan quân Lâm
    Ấp sang quấy nhiễu .

    Thắng trận, năm 544 Lý Bôn tự xưng làm vua
    hiệu Lý Nam Đế, đặt tên nước là Vạn Xuân, chấm dứt Bắc thuộc lần thứ
    hai, đồng thời tạo được một thời gian độc lập lâu dài của dân tộc sau
    gần 700 năm bị giặc Tàu đô hộ.

    Năm 545 quân Tàu kéo sang đánh
    nước ta, Lý Nam Đế già yếu trao quyền lại cho Triệu Quang Phục chống cự
    với quân Tàu, cho đến năm 549 thì giặc Tàu thua chạy về nước, Lý Nam Đế
    đã mất, Triệu Quang Phục lên ngôi xưng là Triệu Việt Vương.

    Đến
    năm 571 Lý Phật Tử là cháu Lý Nam Đế cướp ngôi Triệu Việt Vương, tự xưng
    là Hậu Lý Nam Đế. Để rồi hơn 30 năm sau, năm 602, quân Tàu sang đánh Lý
    Phật Tử đầu hàng. Một lần nữa nước ta lại bị lệ thuộc vào sự đô hộ khắc
    nghiệt của nhà Tùy bên Tàu . Thời tự chủ kéo dài trong 58 năm đặt nền
    móng cho tinh thần chống người Tàu từ phương Bắc của dân tộc ta về sau
    này .

    * - Bắc Thuộc Lần Thứ Ba(602 - 938)

    Năm 602
    nhà Tùy cai trị nước ta, nhưng đến năm 618 thì nhà Tùy bị nhà Đường
    diệt, Giao Châu lại lệ thuộc vào nhà Đường và đổi tên thành An Nam Đô Hộ
    Phủ. Chính sách cai trị của nhà Đường khắc nghiệt nhất so với các triều
    đại khác của Trung Hoa, đã vậy quân Lâm Ấp & quân Nam Chiếu thường
    sang cướp phá luôn, dân gian khổ sở trăm bề.

    Mãi cho đến năm 722,
    Mai Thúc Loan người tỉnh Hà Đông nổi lên chống với quân Đường, chiếm
    giữ một phần đất ở Hoan Châu (Nghệ An). Nhưng sau đó Mai Thúc Loan yếu
    thế thua chạy rồi bị bệnh mất.
    Sau cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan,
    nhà Đường lại càng siết chặt việc cai trị hơn trước nữa . Năm 791,
    Phùng Hưng người tỉnh Sơn Tây đánh đuổi quân Đường về Tàu, lo việc cai
    trị sửa sang lại nước được mấy tháng rồi mất. Con là Phùng An lên thay
    nhưng thế lực đã suy yếu phải hàng nhà Đường khi xâm chiếm nước ta lần
    nữa, dân ta lại lệ thuộc Trung Hoa .

    * - Thời Kỳ Chuyển Tiếp
    Độc Lập với Dương Diên Nghệ - Ngô Quyền ( 931-938 )


    Nhà Nam
    Hán đặt Lý Tiến làm Thứ sử Giao Châu từ năm 923 đến năm 931 thì Dương
    Diên Nghệ nổi lên đánh đuổi quân Nam Hán, Lý Tiến thua chạy về Tàu.
    Dương Diên Nghệ tự xưng làm Tiết Độ Sứ cai trị Giao Châu . Năm 937,
    Dương Diên Nghệ bị nha tướng là Kiều Công Tiện giết để chiếm đoạt quyền
    hành. Bấy giờ Ngô Quyền là rể Dương Diên Nghệ từ Thanh Hoá ra bắt Kiều
    Công Tiện giết đi và phá tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938
    khi quân Nam Hán âm mưu chiếm lại nước ta do sự cầu cứu của Kiều Công
    Tiện - trước khi chết. Thắng trận Bạch Đằng Ngô Quyền chấm dứt hẳn thời
    đại Bắc thuộc kéo dài 1050 năm, mở đường tự chủ cho dân tộc lâu dài từ
    năm 938 trở về sau .

    III- THỜI ĐẠI ĐỘC LẬP

    * - Nhà Ngô
    (938 - 965)


    Sau khi phá quân Nam Hán, Ngô Quyền xưng vương
    (939) đóng đô ở Cổ Loa huyện Đông Anh (Phúc Yên), sửa sang việc cai trị
    mong xây dựng một nền tự chủ vững bền cho quốc gia dân tộc. Ngô Quyền
    mất năm 944, dần dần về sau thế lực nhà Ngô ngày một suy yếu vì triều
    đình không có được những bậc công thần gánh vác việc nước. Đến năm 965
    đời vua Ngô Xương Xí, thì mỗi vùng một thổ hào tạo lấy cho mình một thế
    lực riêng không tôn phục nhà Ngô nữa, rồi mang quân đánh lẫn nhau, gọi
    là loạn Thập nhị sứ quân mà trong đó Ngô Xương Xí cũng là một sứ quân.
    Năm 968 Đinh Bộ Lĩnh dẹp tan loạn sứ quân lập nên nhà Đinh.

    * -
    Nhà Đinh (968 - 980)


    Đinh Bộ Lĩnh người động Hoa Lư tỉnh
    Ninh Bình, lên ngôi năm 968 lấy hiệu là Đinh Tiên Hoàng, đặt tên nước
    Đại Cồ Việt đóng đô ở Hoa Lư, đã có công chăm sóc, sửa sang lại đất nước
    sau thời kỳ nội chiến tương tàn. Nhà Đinh cố lo tổ chức việc binh , có
    được 10 đạo quân hùng mạnh so với thời bấy giờ. Về sau Đinh Tiên Hoàng
    ham mê tửu sắc làm cho triều đình suy yếu đi, đến đời vua cuối cùng là
    Đinh Tuệ mới sáu tuổi thì quân Tống sang đánh, Dương Thái Hậu cùng với
    các tướng sĩ tôn Thập đạo tướng quân Lê Hoàng lên ngôi để đôn đốc quân
    sĩ đánh giặc. Nhà Đinh mất ngôi năm 980 sau 12 năm trị vì.

    * -
    Nhà Tiền Lê (980 - 1009)


    Lê Hoàng lên ngôi lấy hiệu là Đại
    Hành Hoàng Đế, đánh tan quân Tống và chinh phạt Chiêm Thành khi Chiêm
    Thành bắt sứ giả của ta . Vua Lê Đại Hành chăm lo việc cai trị, tổ chức
    quân đội, mở mang nông nghiệp, đúc tiền, đào cảng, mở đường giao
    thông...

    Năm 1004 vua Lê Đại Hành mất, các vị vua về sau nhu
    nhược ham mê tửu sắc, tàn ác, nhà Tiền Lê suy yếu đi và mất ngôi vào năm
    1009 về tay nhà Lý.

    * - Nhà Lý (1010 -1225)

    Vua Lê
    Ngọa Triều làm nhiều điều tàn ác lòng dân cũng như triều đình oán giận,
    nên khi mất đi thì các quan tôn Lý Công Uẩn đang giữ chức Điện Tiền Chỉ
    Huy Sứ lên ngôi .

    Lý Công Uẩn lấy hiệu là Lý Thái Tổ, dời đô ra
    thành Đại La tức Hà Nội bây giờ. Việc nội trị từ Lý Thái Tổ về sau vô
    cùng hoàn bị, các phương tiện hành chánh, chính trị, kinh tế, quân sự,
    tôn giáo ... được tổ chức chu đáo . Nhất là vào triều đại của vua Lý
    Nhân Tôn (1072-1117) Khoa thi đầu tiên của nước ta được tổ chức, văn học
    được chú trọng, quân sự cũng hùng mạnh, Lý Thường Kiệt, Tôn Đản mang
    quân sang đánh Tống tận bên Tàu và phá tan giặc Tống sang báo thù (1075 -
    1076), chinh phạt Chiêm Thành (1103) làm cho nhà Tống nể sợ, Chiêm
    Thành phải triều cống.

    Khi Tống sang đánh nước ta, để thúc lòng
    quân sĩ chống giặc, Lý Thường Kiệt đã làm bài thơ nổi tiếng sau đây:

    Nam Quốc sơn hà Nam Đế cư
    Tiệt nhiên định phận tại
    thiên thư
    Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
    Nhữ đẳng hành khan thử bại

    Về sau, vua Lý Huệ Tôn nhu nhược giao cả binh quyền cho
    Trần Thủ Độ, nghe lời Trần Thủ Độ truyền ngôi cho Công Chúa Lý Chiêu
    Hoàng mới 7 tuổi để đi tu . Trần Thủ Độ ép Lý Chiêu Hoàng lấy cháu mình
    là Trần Cảnh rồi truyền ngôi cho chồng năm 1225, nhà Lý mất nghiệp kể từ
    đó.

    * - Nhà Trần (1225 -1400)

    Trần Cảnh lên làm
    vua lúc 8 tuổi, hiệu là Trần Thái Tôn, mọi việc trong nước đều do Trần
    Thủ Độ quyết định. Trần Thủ Độ định lại việc việc cai trị, tổ chức một
    triều đình có nếp, ấn định thuế má, mở mang nông nghiệp, việc binh bị
    cũng được đặc biệt chú trọng để tránh hiểm họa phương Bắc. Văn học đã mở
    mang rộng rãi, Nho học, Phật giáo, Lão giáo đều được triều đình chú
    trọng. Nhiều nhà Nho, nhà văn nổi tiếng như Mạc Đĩnh Chi, Hàn Thuyên, Lê
    Văn Hưu ... được nhắc nhở trong thời đại này .

    Năm 1257, sau khi
    vó ngựa đã dẫm nát Trung Hoa, biến Trung hoa thành nô lệ cho nhà Nguyên
    và làm rung chuyển cả Âu Châu, quân Mông Cổ quay sang bắt đầu đánh nước
    ta . Tuy nhiên, chỉ ít lâu sau đạo quân Mông Cổ bị đánh bại tan tành
    không còn manh giáp phải chạy về Tàu, đánh dấu cho lần thất bại đầu tiên
    của nhà Nguyên ở Việt Nam.

    Năm 1284, để phục hận cho lần trước
    bị đánh bại, quân Mông Cổ đem 50 vạn quân do Thoát Hoan, Toa Đô, cùng Ô
    Mã Nhi tràn sang xâm chiếm nước ta . Trước thế giặc quá mạnh, vua Trần
    Nhân Tôn hội họp các Vương Hầu ở Bình Than chia nhau ra chống giặc. Đồng
    thời triệu tập các bô lão ở diện Diên Hồng để hỏi nên hòa hay nên chiến
    - các bô lão đều đồng thanh xin đánh giặc cả.

    Giai đoạn đầu thế
    giặc mạnh như nước vỡ bờ, quân ta phải rút lui về giữ những nơi hiểm yếu
    . Về sau với những danh tướng tài giỏi như Trần Hưng Đạo, Trần Nhật
    Duật, Trần Quốc Toản, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão ... và tinh thần dốc
    lòng đánh giặc của toàn dân, nên Toa Đô đã bỏ xác với vô số quân Mông
    Cổ, còn Thoát Hoan và Ô Mã Nhi cùng tàn quân chạy trối chết về Tàu . 50
    vạn quân Mông Cổ tan rã nhục nhã trong vòng không đầy một năm
    (1284-1285). Lần thứ hai nhà Nguyên thảm hại chua cay trước dân tộc Việt
    khi đã mở rộng đế quốc của họ ra đến tận Âu Châu .

    Để phục thù,
    nhà Nguyên đình lại việc đánh Nhật Bản, quay sang đánh nước ta . Thuyền
    chiến, lương thực, khí giới, quân lính được chuẩn bị chu đáo, nhà Trần
    biết được điều đó cũng lo phòng bị đối phó với giặc. Năm 1287 Thoát
    Hoan, Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp dẫn 30 vạn quân cùng với 500 chiến thuyền ào
    ạt tràn sang nước ta lần thứ ba .

    Giai đoạn đầu, giặc quá mạnh,
    vua tôi nhà Trần phải lánh vào Thanh Hóa để tránh mũi dùi của giặc và
    kêu gọi khắp nơi cầm cự với quân Nguyên. Về sau quân ta bắt được thuyền
    lương của giặc từ bên Tàu chuyển qua ở Vân Đồn làm cho quân Mông Cổ run
    sợ - để rồi một lần nữa sóng nước Bạch Đằng đã nhận chìm vô số quân Mông
    Cổ và Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp với 400 chiến thuyền bị quân ta bắt được.
    Trên đường chạy trốn về nước, Thóat Hoan còn bị Phạm Ngũ Lão phục binh
    đánh cho một trận tơi bời, chạy trối chết về Tàu .

    Đạo quân Mông
    Cổ mà vó ngựa đã từng dẫm nát lục địa Trung Hoa, xâm chiếm Nga-la-tư
    rộng lớn, đánh tan các đội kî binh Âu Châu, làm run chuyển một phần lớn
    vùng này, với ba lần thất bại, đã phải cúi đầu trước sức kháng cự của
    dân tộc Việt mà từ bỏ mộng xâm lăng nước ta, cho đến khi nhà Nguyên bị
    diệt bên Tàu .

    Về cuối đời nhà Trần, các vua nhu nhược, triều
    chính không người coi sóc, binh bị sao lãng để ba lần quân Chiêm Thành
    đánh phá đến tận Thăng Long. Vào năm 1390, vua Chiêm là Chế Bồng Nga lại
    kéo quân sang đánh, bị Trần Khắc Chân bắn chết từ đó giặc Chiêm mới
    yên. Tuy nhiên nhà Trần đã suy sụp lắm rồi nên Lê Quý Ly lộng quyền âm
    mưu diệt trừ các thế lực của nhà Trần dần dần, cho đến năm 1400 thì soán
    đoạt ngôi của Thiếu Đế. Nhà Trần mất nghiệp sau 175 năm trị vì.

    *
    - Nhà Hồ (1400-1407)


    Lên ngôi rồi, Lê Quý Ly đổi trở lại là
    Hồ Quý Ly, đặt tên nước Đại Ngu, đóng đô ở Tây Đô (Thanh Hóa) Nhìn
    chung, nhà Hồ tuy ở ngôi có 7 năm nhưng đã làm được rất nhiều như: giảm
    thuế đinh, thuế điền, đặt ra thuế thuyền buôn, những quả phụ cô nhi và
    những người không có ruộng đất được miễn thuế. Hồ Quý Ly còn có sáng
    kiến in giấy bạc để thay cho tiền đồng, nhằm tiện việc buôn bán, làm
    giàu cho ngân khố. Việc học hành thi cử cũng thay đổi rất nhiều: đặt ra
    thêm môn thi toán pháp, dùng chữ Nôm để giảng dạy khắp trong nước và
    soạn thảo công văn, sớ biểu . Phật Giáo cuối đời nhà Trần suy yếu đi
    nhiều vì thiếu những bậc chân tu sâu sắc . Ngoài ra nhà Hồ lại đặt ty
    y-tế để lo việc thuốc thang cho dân, đồng thời nhà Hồ cũng chú ý rất
    nhiều đến việc tổ chức binh bị để tránh hiểm họa phương Bắc. Năm 1042
    nhà Hồ mang quân đánh Chiêm Thành, di dân vào khai phá Quảng Nam và
    Quảng Ngãi ngày nay, mở rộng bờ cõi về phương Nam.

    Tuy nhiên, về
    sau khi quân Minh sang đánh với chiêu bài khôi phục cho nhà Trần, nhiều
    cựu thần còn tưởng nhớ tới thời vàng son của nhà Trần nên theo giặc rất
    đông, đồng thời quan niệm về chiến thuật của nhà Hồ sai lầm nên năm
    1407, Hồ Quý Ly và con cháu thua trận bị bắt giải về Tàu, giữa đường tự
    tử chết, nhà Hồ mất nghiệp sau 7 năm.

    * - Nhà Hậu Trần (1409 -
    1413)


    Quân Minh sau khi đánh bại Hồ Quý Ly, âm mưu chiếm
    luôn nước ta . Trước dã tâm đó của quân Minh, con cháu của nhà Trần và
    nhiều cựu thần, anh hùng hào kiệt không muốn làm nô lệ, bất hợp tác với
    chúng. Do đó, quân Minh luôn luôn gặp sự chống đối của con cháu nhà Trần
    được sự ủng hộ của toàn dân và nhiều người tài giỏi .

    Năm 1407,
    Trần Quỹ con thứ của vua Trần Nghệ Tôn xưng là Giản Định Đế chiêu mộ
    quân chống giặc Minh. Đầu năm 1409 thì Giản Định Đế vào Thanh Hóa để phụ
    với Trần Quý Khoách là cháu Trần Nghệ Tôn cùng lo việc khôi phục. Được
    nhiều người tài giỏi giúp sức nhà Hậu Trần đánh nhau với quân Minh mãi
    cho đến năm 1413 thì tan vỡ, từ đó nước ta mới lệ thuộc hẳn nhà Minh bên
    Tàu.

    * - Nước Ta Thuộc Nhà Minh (1414 - 1427)

    Đến
    năm 1414, nhà Minh chính thức cai trị nước ta, một chính sách rất chặt
    chẽ và khắc nghiệt về mọi phương diện. Về hành chánh phân chia nước ta
    ra làm nhiều cấp để cai trị, nhiều thứ thuế mới được đặt ra, bắt dân lên
    rừng săn ngà voi, xuống biển mò ngọc trai nộp cho chúng. Đồng hóa dân
    ta với Tàu bằng mọi cách, chỉ cho phép lưu hành Tứ Thư Ngũ Kinh của
    Trung Hoa mà thôi, trong khi sách vở quý giá của ta từ đời Trần trở về
    trước thì chúng tóm thâu cho hết về Tàu . Chúng bắt dân ta phải thờ cúng
    Thần thánh của Trung hoa theo các phong tục Trung Hoa .

    * -
    10 Kháng Chiến Chống Quân Minh (1418 - 1427): Lê Lợi


    Lê Lợi
    là một phú nông ở làng Lam Sơn (Thanh Hóa), trước sự tàn ác dã man của
    quân Minh, năm 1418 Lê Lợi được nhiều người tài giúp sức đã phất cờ khởi
    nghĩa đánh đuổi giặc Minh.

    Trong giai đoạn đầu Lê Lợi phải vất
    vả rất nhiều, có lần phải xin tạm hòa với giặc, phải để cho gia đình bị
    giặc bắt, cũng như để cho tùy tướng thân cận là Lê Lai liều mình cứu
    khỏi vòng vây .

    Về sau, nhờ Nguyễn Trãi bày mưu ta thắng giặc
    nhiều trận, vây tướng Minh là Vương Thông ở Đông Đô (Hà Nội), chém Liễu
    Thăng ở Chi Lăng khi Liễu Thăng mang quân giải cứu Vương Thông.
    Cuối
    cùng năm 1427, Vương Thông phải đầu hàng để kết thúc 10 năm gian khổ
    giành độc lập của Lê Lợi cùng toàn dân.

    * - Hậu Nhà Lê
    (1428-1527)


    Lê Lợi lên ngôi năm 1428 lấy niên hiệu là Lê Thái
    Tổ, đặt tên nước là Đại Việt đóng đô ở Thăng Long. Chia đất nước ra làm
    5 đạo, đặt quan cai trị. Tại triều có quan Tả Hửu tướng quốc đứng đầu
    các quan, có Thượng Thư đứng đầu các bộ Lại, Lễ, Hộ, Binh, Hình, Công.
    Nông nghiệp được khuyến khích, đắp đê để tránh lụt, mở thêm đồn điền,
    khai khẩn đất hoang, qui định thuế má rõ ràng, và định lại phép cân đo .
    Bộ Luật Hồng Đức ban bố vào triều vua Lê Thánh Tôn rất hoàn bị được xem
    như khuôn mẫu cho các luật lệ về sau này . Văn học cũng được chú trọng
    đặc biệt, Nho học cực thịnh. Triều đình đặt ra lệ xướng danh, khắc tên
    vào bia đá và cho về vinh qui bái tổ những người thi đỗ tiến sĩ để
    khuyến khích việc học. Rất nhiều văn tài đã xuất hiện cũng như những tác
    phẩm văn chương giá trị được viết trong triều đại này . Tuy nhiên, Phật
    giáo và Lão giáo lúc bấy giờ đang trên đà suy tàn, nhường bước cho Nho
    giáo đang phát triển vượt bậc.

    Việc binh bị cũng được chú ý rất
    kỹ, các vua nhà hậu Lê nhiều lần mang quân sang chinh phạt Chiêm Thành.
    Trong các năm 1446, 1470 quân ta chinh phạt Chiêm Thành đánh phá đến tận
    kinh đô Chiêm là thành Đồ Bàn, bắt được vua Chiêm và Cung phi đem về
    Thăng Long. Năm 1471 vua Lê Thánh Tôn chinh phạt Chiêm rồi cho quân ở
    lại giữ, sau đó đưa quân vào khai khẩn mở đồn điền lập ra đất Quảng bây
    giờ. Từ đó, Chiêm Thành bắt đầu suy vong mở đường tiến cho các Chúa
    Nguyễn vào miền Nam sau này .
    Ngoài ra, năm 1479 nhà Hậu Lê còn đánh
    dẹp quân Ai-lao và quân Bồn Man là xứ nằm ở phía tây Nghệ An khi hai xứ
    này liên kết nổi lên chống lại Đại Việt.

    Tuy nhiên, bắt đầu từ
    năm 1504 thì nhà Hậu Lê suy dần với Lê Uy Mục, Lê Tương Dực, Lê Chiêu
    Tôn, Lê Cung Hoàng... đều là những vị vua bất tài, nhu nhược, xa xỉ, tàn
    bạo ... Giặc giã nổi lên khắp nơi đánh phá, triều đình không dẹp được.
    Triều chính suy yếu, các quân chia phe cánh đánh lẫn nhau cho đến năm
    1527 thì bị Mạc Đặng Dung cướp ngôi, nhà Hậu Lê mất sau 100 năm trị vì.

    *
    - Nhà Mạc (1527-1592)


    Mạc Đặng Dung cướp ngôi nhà Hậu Lê,
    lên làm vua hiệu là Minh Đức, vẫn giữ nguyên nề nếp cũ của nhà Lê chứ
    không sửa đổi gì cả. Tuy nhiên họ Mạc vẫn không thu phục được lòng dân
    còn tưởng nhớ đến nhà Lê, nên rất nhiều người nổi lên chống phá.

    Trong
    đó có Nguyễn Kim là con Nguyễn Hoằng Dụ, một cựu thần nhà Lê năm 1532,
    lập con vua Lê Chiêu Tôn lên làm vua tức Lê Trang Tôn rồi bắt đầu công
    cuộc trùng hưng nhà Hậu Lê . Ngoài ra họ Mạc còn gánh chịu hiểm họa xâm
    lăng của phương Bắc. Năm 1540 Mạc Đăng Dung phải đầu hàng, dâng đất cho
    nhà Minh để được bãi binh & phong chức Đô Thống Sứ.

    Sau cùng,
    Trịnh Tùng giúp nhà Lê trùng hưng bắt giết được Mạc Mậu Hợp năm 1592,
    nhà Mạc coi như mất ngôi. Con cháu chạy lên Cao bằng nương nhờ thế lực
    nhà Minh một thời gian nữa rồi mất hẳn vào năm 1667.

    * - Nhà
    Lê Trung Hưng (1532-1778)


    Có thể tính nhà Lê Trung Hưng bắt
    đầu vào năm 1532, khi Lê Trang Tôn lên ngôi. Tuy nhiên bấy giờ nhà Lê đã
    suy yếu lắm rồi, chỉ còn hư vị nhìn Trịnh Tùng xưng Chúa đất Bắc năm
    1570, Nguyễn Hoàng làm Chúa miền Nam năm 1572 và nhà Mạc ở đất Cao Bằng
    mang quân đánh lẫn nhau gần nửa thế kỉ để rồi mất hẳn nghiệp vào năm
    1778 ở đời vua Lê Chiêu Thống, khi 20 vạn quân Thanh bị đánh tan do sự
    cầu cứu của Lê Chiêu Thống.

    IV - THỜI NAM BẮC PHÂN TRANH
    (1572-1802)


    * - Trịnh Nguyễn Phân Tranh


    Ngay sau
    khi Nguyễn Kim chết, con Nguyễn Kim là Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng còn
    nhỏ, binh quyền về tay rể Nguyễn Kim là Trịnh Kiểm thì mầm móng chia rẻ
    Trịnh-Nguyễn đã phát sinh. Về sau vì sợ Nguyễn Uông tranh quyền, Trịnh
    Kiểm dùng mưu giết Nguyễn Uông đi, Nguyễn Hoàng lo sợ nói với chị là
    Ngọc Bảo xin Trịnh Kiểm cho vào đất Thuận Hóa phía Nam năm 1558. Tuy
    nhiên sau đó Nguyễn Hòang vẫn bị Trịnh Kiểm và Trịnh Hùng gọi ra Bắc để
    kiềm chế lấy cớ là dẹp loạn, mãi cho đến năm 1572 Nguyễn Hoàng nhân một
    chuyến đi dẹp loạn trốn được vào Nam, từ đó có cuộc phân tranh
    Trịnh-Nguyễn chính thức.

    Ở Bắc, các Chúa Trịnh kể từ Trịnh Tùng
    lo sửa sang quan chế, giảm nhẹ hình phạt, cho khai mỏ, mở cảng Phố Hiến,
    mở mang thương mại . Mở trường võ bị, đặt lệ thi võ, sai người viết sử
    lại, khắc bảng gỗ in sách vở để không mua của Trung Hoa nữa, đánh dẹp
    các cuộc nổi loạn... thực quyền nằm ở Phủ Chúa, các vua Lê nối tiếp nhau
    chỉ có hư vị.

    Ở Nam, các Chúa Nguyễn kể từ Nguyễn Hoàng tổ chức
    việc hành chánh, đặt thuế xuất nhập cảng, mở cảng Hội An, đặt lệ thi để
    chọn nhân tài, mở trường đúc súng đại bác, tập bắn... Nhưng công nghiệp
    quan trọng nhất của các chúa Nguyễn là mở mang bờ cõi về phương Nam. Lúc
    vào trấn Thuận Hoá, lãnh thổ nước ta chỉ có đến Bình Định ngày nay, sau
    các Chúa Nguyễn lần lượt chiếm nốt đất của Chiêm Thành và thu nhận đất
    Thủy Chân Lạp từ tay người Chân Lạp để lập ra miền Tây Nam phần ngày nay
    .

    Bắt đầu từ năm 1627, hai bên mang quân đánh lẫn nhau, chiến
    trường thường là vùng Quảng Bình, kéo dài 45 năm với 7 trận đánh không
    phân thắng bại cuối cùng năm 1672 mới giảng hòa chia đôi đất nước, lấy
    sông Gianh làm ranh giới giữa đôi bên. Hòa bình kéo dài được 100 năm,
    cho đến lúc anh em Tây Sơn dấy nghiệp ở đất Qui Nhơn thì chấm dứt.

    Cũng
    trong thời gian phân tranh này, người Âu Châu bắt đầu tiếp xúc với Việt
    Nam ở cả đàng trong lẫn đàng ngoài trong việc buôn bán và truyền đạo
    Thiên Chúa.

    Cuối cùng hai bên suy yếu đi vì các Chúa chơi bời xa
    xỉ không lo việc nước, triều thần lộng quyền, lòng dân không còn phục
    nữa giặc cướp nổi lên đánh phá khắp nơi, để đến năm 1777 anh em Tây Sơn
    dứt nghiệp Chúa ở miền Nam chỉ còn cháu Chúa Nguyễn là Nguyễn Ánh chạy
    thoát và dứt Chúa Trịnh năm 1786 ở miền Bắc.

    Đồng thời vua Lê
    Chiêu Thống nhu nhược không tổ chức được triều chính khi anh em Tây Sơn
    ra Bắc diệt họ Trịnh xong rồi rút quân về miền Nam. Năm 1788 Nguyễn Huệ
    ra Bắc lần thứ hai, Lê Chiêu Thống chạy sang Tàu cầu cứu nhà Thanh, họ
    Lê mất hẳn ngôi vào lúc đó.

    Tuy nhiên, tình hình vẫn chưa ổn định
    được, anh em Tây Sơn bất hòa đánh lẫn nhau, quân Thanh xâm lăng nước
    ta, Nguyễn Phúc Ánh đánh phá miền Nam... mãi cho đến năm 1802 Gia Long
    mới thống nhất được đất nước.

    * - Nhà Tây Sơn (1778-1802)

    Anh
    em Tây Sơn : Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ người làng Tây Sơn tỉnh
    Quy Nhơn, năm 1771 dựng cờ khởi nghĩa, quy tụ được rất nhiều người bất
    mãn với chế độ nổi lên chống lại phía Nguyễn khi quyền thần Trương phúc
    Loan làm nhiều điều tàn ác, tham lam dân chúng khổ sở.

    Đầu tiên
    anh em Tây Sơn dùng mưu lấy Quy Nhơn, rồi chẳng bao lâu đánh chiếm luôn
    Phú Xuân (Huế) đuổi Chúa Nguyễn cùng cháu là Nguyễn phúc Ánh chạy vào
    Gia Định. Nhưng sau đó họ Trịnh từ Bắc đánh vào, Chúa Nguyễn từ Nam đánh
    ra, Tây Sơn ở giữa phải giả hàng Chúa Trịnh để quay vào đánh Chúa
    Nguyễn. Từ đó Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ dùng mưu đánh lấy đất Gia Định, Chúa
    Nguyễn bị bắt giết, cháu là Nguyễn phúc Ánh chạy thoát năm 1777, chấm
    dứt nghiệp Chúa ở miền Nam.

    Năm sau, năm 1778 Nguyễn Nhạc tự xưng
    đế, đặt niên hiệu là Thái Đức, lấy thành Đồ Bàn làm kinh đô, phong tặng
    cho Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ.

    Nhân khi miền Bắc có loạn năm 1782,
    vua Tây Sơn sai Nguyễn Huệ đánh chiếm đất Thuận Hóa, sau đó Nguyễn Huệ
    ra Bắc truyền hịch phù Lê diệt Trịnh, bắt giết được Trịnh Khải năm 1786,
    họ Trịnh mất hẳn từ đó.

    Anh em Tây Sơn rút quân về Nam, Nguyễn
    Huệ được vua Lê Hiển Tôn phong làm Nguyên Soái và gả con gái là Công
    chúa Lê Ngọc Hân. Sau đó vua Lê Hiển Tôn mất, Lê Chiêu Thống kế vị bất
    tài nhu nhược các tướng chuyên quyền, nên năm 1788 Nguyễn Huệ ra Bắc lần
    thứ 2 bắt giết các tướng có ý phản, vua Lê Chiêu Thống chạy trốn tìm
    người trung nghĩa lo khôi phục, nhưng thế lực đã suy tàn cơ nghiệp nhà
    Hậu Lê từ năm này coi như chấm dứt. Về sau Lê Chiêu Thống cầu cứu nhà
    Thanh nhưng cũng không thành công.

    Cũng trong thời gian đó thì
    anh em Tây Sơn bất hòa đánh lẫn nhau, nên năm 1788 Lê Chiêu Thống cầu
    cứu nhà Thanh, Tôn Sĩ Nghị mang 20 vạn quân xâm chiếm Bắc Hà thì Nguyễn
    Huệ ở Phú Xuân lên ngôi hoàng đế, niên hiệu là Quang Trung rồi đem quân
    ra Bắc. Với những trận đánh ở Hà Hồi, Ngọc Hồi, Đống Đa .... Hứa Thế
    Thành, Tôn Sĩ , Sầm Nghi Đống... bỏ xác tại trận và 20 vạn quân Thanh bị
    đánh tan trong vòng 5 ngày . Tôn Sĩ Nghị chạy trốn về Tàu bỏ cả ấn tín
    Lê Chiêu Thống vội vã chạy theo, sống lưu vong với đám tùy tùng rồi chết
    ở bên đó.

    Phá tan quân Thanh rồi, vua Quang Trung cải cách được
    nhiều việc, chuẩn bị binh lính để đánh Trung hoa, nhưng chỉ được mấy năm
    rồi mất sớm, truyền ngôi lại cho con là Quang Toản. Từ đó thế lực Tây
    Sơn suy tàn, trong khi ở miền Nam , Nguyễn Phúc Ánh được nhiều ngươ ;øi
    tài giỏi giúp sức mỗi ngày mỗi mạnh lên, để đến năm 1802 thì dứt nhà Tây
    Sơn thống nhất đất nước sau gần 200 năm phân chia nội chiến
    -NHÀ
    NGUYỄN (1802-1945)


    Lên ngôi năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh lấy
    hiệu là Gia Long, đóng đô ở Huế, đặt tên nước Việt Nam, tổ chức triều
    chính, mở trường học ở khắp nơi, tổ chức các khoa thi để chọn người làm
    quan, Nho học được chú trọng. Nhà Nguyễn cũng chăm lo tổ chức quân đội,
    đánh dẹp các cuộc nội loạn nhất là dưới thời Minh Mạng, Tự Đức. Về luật
    pháp cũng được sửa đổi ít nhiều qua bộ luật Gia Long, triều đình còn
    khuyến khích mở mang nông nghiệp, đào kinh dẫn nước vào ruộng và tiện
    việc giao thông ở miềnTây Nam phần.

    Nguyễn Trường Tộ là người
    tinh thông Nho học và được du học ở các quốc gia Tây phương. Khi về nước
    đã dâng lên vua Tự Đức những bản điều trần xin cải cách canh tân xứ sở.
    Nhưng triều đình Huế bấy giờ chỉ là những nhà Nho thấm nhuần tư tưởng
    Đông phương, bảo thủ, nghi ngờ không dám bỏ cũ theo mới . Nên trước kia
    trong các năm 1821,1822,1835 nhiều phái đoàn Anh, Mỹ, Pháp đến xin thông
    thương, buôn bán đều bị từ chối; cho nên những bản điều trần của Nguyễn
    Trường Tộ cũng chịu chung số phận, các quan lại già nua tham quyền cố
    vị lo sợ những người mới tranh hết quyền hành, đồng thời tình hình cũng
    rối ren do đó dần dần những đề nghị của Nguyễn Trường Tộ bị bỏ dở không
    thực hiện gì cả.

    VI - CUỘC XÂM LĂNG CỦA NGƯỜI PHÁP VÀO VIỆT
    NAM (1858-1884)


    Cuối thế kỷ 18, người Pháp bắt đầu dòm
    ngó đến Việt Nam trong việc mở rộng thuộc địa . Năm 1858 Pháp bắt đầu
    xâm lăng Việt Nam, thì 4 năm sau, năm 1862 hòa ước Nhâm Tuất ký giữa
    triều đình Huế (do Phan Thanh Giản đại diện) và Pháp nhường dứt cho Pháp
    ba tỉnh miền Đông Nam phần Gia-định, Định-tường, Biên-hòa mở đầu cho
    những hòa ước sau này dẫn đến việc Việt Nam rơi vào tay Pháp.

    Năm
    1863, Phan Thanh Giản cầm đầu phái bộ sang Pháp điều đình chuộc đất,
    nhưng bất thành. Sau khi về nước, Phan Thanh Giản được cử làm
    Kinh-lược-sứ ba tỉnh miền Tây Nam phần Vĩnh long, An giang, và Hà tiên
    để lo chống việc Pháp.

    Pháp đem quân đánh, Phan Thanh Giản uống
    thuốc độc chết, ba tỉnh thất thủ, sáu tỉnh Nam phần rơi vào tay Pháp.
    Chiếm xong sáu tỉnh miền Nam Pháp lăm le đất Bắc, Nguyễn Tri Phương được
    cử giữ thành Hà Nội, Pháp đem quân đánh Hà nội lần thứ nhất, Nguyễn Tri
    Phương cùng con là phò mã Nguyễn Lâm chết theo thành khi thành mất.

    Trước
    thất bại này, triều đình phải ký với Pháp hòa ước năm Giáp Tuất (1874),
    nhường cho Pháp sáu tỉnh Nam Phần, đổi lại Pháp trả Hà Nội cho Việt
    Nam.

    Tuy nhiên Pháp vẫn dòm ngó đất Bắc, Hoàng Diệu được cử là
    Tổng Đốc Hà nội để lo đối phó với giặc Pháp. Năm 1882 Pháp mang quân
    đánh Hà-nội lần thứ hai, vì có người phản bội đốt kho thuốc súng nên
    thành Hà-nội thất thủ, Hoàng Diệu thắt cổ chết, đất Bắc lọt vào tay Pháp
    lần nữa .

    Giữa lúc tình thế rối ren, năm 1883 vua Tự Đức băng
    hà, triều đình Huế bị xáo trộn vì Nguyễn văn Tường và Tôn Thất Thuyết
    trong vòng mấy tháng phế lập liên tiếp các vua Hiệp Hòa, Kiến Phúc, Hàm
    Nghi
    Sau khi lên ngôi, vua Hàm Nghi cùng với Tôn Thất Thuyết và các
    văn thân tổ chức đánh úp Pháp ở đồn Mang Cá - gần kinh thành, nhưng
    không thắng được. Kinh đô Huế thất thủ, Nguyễn văn Tường và Tôn Thất
    Thuyết đưa vua Hàm Nghi chạy ra Quảng Bình truyền hịch Cần Vương kêu gọi
    các sĩ phu cùng tòan dân đứng ra cứu nước.

    Triều đình Huế còn
    lại phải ký với chính phủ Pháp hoà ước Patenotre (1884) chấp nhập sự đô
    hộ của Pháp ở Bắc Kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ là đất thuộc địa. Nhà Nguyễn
    mất thực quyền bắt đầu vào năm này và Việt Nam rơi vào vòng đô hộ của
    thực dân Pháp kể từ đó.

    Nguồn: chuyen-qb.com

      Hôm nay: Thu Mar 28, 2024 4:51 pm